Điều 18 Luật Luật sư 2006 quy định thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với người đã được cấp Chứng chỉ hành nghề nhưng được tuyển dụng, bổ nhiệm làm cán bộ, công chức, viên chức.
Quy định thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư còn áp dụng đối với các đối tượng sau:
(1) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
(2) Không còn thường trú tại Việt Nam;
(3) Không còn đủ tiêu chuẩn luật sư;
(4) Bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xoá tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư;
(5) Bị tước quyền sử dụng Chứng chỉ hành nghề luật sư;
(6) Bị kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư đối với các đối tượng nêu trên, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư.
Đối với người bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư thì trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định kỷ luật, Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư đã xử lý kỷ luật luật sư gửi văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư. Theo đó, người bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề phải chấm dứt hoạt động hành nghề luật sư kể từ ngày có Quyết định kỷ luật xóa tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư.
Khi phát hiện luật sư thuộc một trong những trường hợp bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề (1), (2), (3), (4) và (6) thì Đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên hoặc các cơ quan, tổ chức khác có văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư của luật sư đó.
Địa chỉ: | 19 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh |
Điện thoại: | (028) 7302 2286 |
E-mail: | info@lawnet.vn |