Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương ngắn gọn, cảm xúc? Học sinh lớp 8 phải ứng xử với giáo viên như thế nào?

Hướng dẫn học sinh phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương cập nhật mới nhất năm học 2025?

Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương ngắn gọn, cảm xúc?

Học sinh tham khảo 3 mẫu bài văn nghị luận phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương dưới đây:

Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương mẫu số 1

Văn học không chỉ là tiếng nói của tâm hồn mà còn là tấm gương phản chiếu xã hội, thể hiện những biến động của thời cuộc. Vào cuối thế kỷ XIX, khi đất nước Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp, nền giáo dục Nho học cũng bước vào giai đoạn suy tàn. Trong bối cảnh ấy, Trần Tế Xương, một nhà thơ tài năng nhưng bạc mệnh, đã dùng ngòi bút của mình để ghi lại những thực trạng đáng buồn của xã hội. Vịnh khoa thi Hương là một trong những bài thơ trào phúng sắc bén nhất của ông, phản ánh sự rệu rã của nền khoa cử dưới chế độ thực dân, đồng thời bộc lộ tâm trạng xót xa, tiếc nuối của một kẻ sĩ trước vận mệnh đất nước.

Khoa thi Hương là một trong những kỳ thi quan trọng của chế độ phong kiến, được tổ chức ba năm một lần nhằm tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ XIX, chế độ thi cử này đã không còn giữ được giá trị nguyên bản mà trở thành một hình thức mang tính hình thức, lỏng lẻo, mất dần tính nghiêm túc. Đặc biệt, vào khoa thi Đinh Dậu năm 1897, trường thi Hà Nội đã bị thực dân Pháp chiếm đóng, buộc sĩ tử Hà Nội phải dồn về trường thi Nam Định. Sự kiện này chính là cảm hứng để Trần Tế Xương sáng tác bài thơ, trong đó ông đã dùng giọng điệu trào phúng để vạch trần hiện thực thi cử nhố nhăng và sự thao túng của thực dân Pháp trong nền giáo dục nước ta.

Ngay từ hai câu đề, nhà thơ đã mở ra bối cảnh của khoa thi một cách đầy châm biếm:

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Những kỳ thi vốn được tổ chức theo quy tắc chặt chẽ nay đã trở nên lộn xộn, mất đi sự tôn nghiêm vốn có. Cụm từ “lẫn” trong câu thơ không chỉ diễn tả sự gộp chung giữa hai trường thi mà còn hàm ý về sự rối ren, lẫn lộn trong hệ thống giáo dục phong kiến. Đây là dấu hiệu báo trước sự suy tàn của một nền thi cử lâu đời.

Hai câu thực tiếp tục vẽ nên một bức tranh hỗn loạn trong trường thi:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Những sĩ tử đi thi không còn giữ được vẻ nghiêm túc, đạo mạo mà trở nên lôi thôi, nhếch nhác, trái ngược hoàn toàn với hình ảnh kẻ sĩ ngày xưa. Không chỉ sĩ tử mà ngay cả quan trường – những người có trách nhiệm tổ chức kỳ thi – cũng hời hợt, làm việc qua loa, thể hiện qua từ "ậm oẹ" gợi sự thiếu nghiêm túc, không còn khí chất uy nghiêm của bậc trí thức.

Những câu thơ này cho thấy một nền giáo dục suy tàn, nơi mà cả người học lẫn người dạy đều không còn đủ phẩm chất và đạo đức để giữ vững giá trị của nó.

Hai câu luận chuyển sang một vấn đề nghiêm trọng hơn: sự xâm nhập của thực dân Pháp vào nền khoa cử phong kiến:

Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,

Váy lê quét đất, mụ đầm ra.

Hình ảnh “lọng cắm rợp trời” vốn gắn liền với quan lại triều đình, nhưng ở đây lại dành để đón tiếp quan sứ Pháp, thể hiện sự thao túng của thực dân trong giáo dục. Đặc biệt, hình ảnh “mụ đầm” – vợ quan sứ Pháp – xuất hiện trong trường thi là một điều hết sức nực cười và lố bịch, vì trường thi vốn là nơi tuyển chọn nhân tài, nay lại trở thành nơi thể hiện quyền lực của ngoại bang.

Bằng giọng điệu mỉa mai sâu cay, Tú Xương đã vạch trần thực trạng mất nước và sự nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn, khi mà nền khoa cử – vốn là niềm tự hào của dân tộc – nay lại bị thực dân Pháp chi phối.

Bài thơ không chỉ có giọng điệu trào phúng mà còn chứa đựng một nỗi buồn sâu sắc, thể hiện qua hai câu kết:

Nhân tài đất Bắc nào ai đó?

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!

Câu hỏi tu từ “Nhân tài đất Bắc nào ai đó?” chứa đựng sự chua xót, hoài nghi. Khi khoa cử đã trở thành một trò hề, thì liệu còn ai thực sự là nhân tài nữa không? Hay chỉ là những kẻ thi cử vì danh lợi mà không có thực học?

Câu thơ cuối “Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!” là một lời cảnh tỉnh đầy đau xót. Nhà thơ kêu gọi mọi người nhìn lại thực trạng đất nước, nhưng cũng chính bản thân ông cảm thấy bất lực trước thời cuộc. Từ giọng điệu trào phúng, bài thơ khép lại bằng một tiếng thở dài đầy tiếc nuối, xót xa.

Bên cạnh nội dung hiện thực sâu sắc, bài thơ còn thể hiện tài năng nghệ thuật bậc thầy của Trần Tế Xương: Sử dụng ngôn ngữ trào phúng sắc sảo: Những từ ngữ như “lôi thôi”, “ậm oẹ”, “lọng cắm”, “váy lê” được dùng một cách đắc địa, tạo nên hiệu ứng mỉa mai sâu sắc.

Hình ảnh giàu tính biểu tượng: "lọng", "mụ đầm", "váy lê" không chỉ mang ý nghĩa tả thực mà còn là những biểu tượng của sự tha hóa, sự lấn át của thực dân Pháp. Kết hợp giữa giọng điệu trào phúng và trữ tình: Bài thơ không chỉ cười cợt mà còn chất chứa nỗi đau của một kẻ sĩ trước vận mệnh đất nước.

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương không chỉ là một bài thơ trào phúng xuất sắc mà còn là một bản cáo trạng đầy mạnh mẽ về thực trạng suy thoái của nền khoa cử và sự thao túng của thực dân Pháp đối với nền giáo dục Việt Nam cuối thế kỷ XIX.

Tác phẩm thể hiện một cách sắc bén sự rệu rã của sĩ tử, sự hời hợt của quan trường, và sự lố bịch của chế độ thực dân, đồng thời phản ánh nỗi đau, sự bất lực của nhà thơ trước cảnh nước mất nhà tan.

Bài thơ vẫn còn nguyên giá trị trong thời đại ngày nay, nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của một nền giáo dục thực chất, không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cực.

Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương mẫu số 2

Trần Tế Xương (1870 - 1907), hay còn gọi là Tú Xương, là một trong những nhà thơ trào phúng nổi bật của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Ông sinh ra và trưởng thành trong thời kỳ đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn bạc nhược, nền giáo dục Nho học suy tàn. Dưới con mắt sắc sảo của một trí thức yêu nước, ông đã dùng ngòi bút của mình để phản ánh hiện thực xã hội đầy biến động, đặc biệt là sự suy thoái của nền khoa cử phong kiến.

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương được sáng tác trong bối cảnh khoa thi Đinh Dậu (1897), khi trường thi Hà Nội bị thực dân Pháp chiếm đóng, buộc sĩ tử Hà Nội phải về trường thi Nam Định dự thi. Bằng giọng điệu trào phúng sắc bén, Tú Xương không chỉ tố cáo sự mục nát của nền thi cử mà còn bày tỏ nỗi đau mất nước, sự bất lực của một kẻ sĩ trước cảnh nước nhà bị ngoại bang thao túng.

Hai câu đề: Bối cảnh khoa thi suy tàn

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Hai câu thơ mở đầu giới thiệu về kỳ thi Hương theo chế độ khoa cử phong kiến. Theo truyền thống, triều đình nhà Nguyễn vẫn duy trì khoa thi ba năm một lần để tuyển chọn nhân tài. Tuy nhiên, điểm bất thường của khoa thi năm Đinh Dậu là trường thi Nam Định và Hà Nội bị gộp chung, do thực dân Pháp đã chiếm trường thi Hà Nội.

Từ “lẫn” trong câu thơ thứ hai không chỉ đơn thuần diễn tả sự trộn lẫn giữa hai trường thi mà còn ngầm ám chỉ sự rối ren, hỗn loạn của nền khoa cử thời bấy giờ. Một kỳ thi vốn mang ý nghĩa tuyển chọn nhân tài nay trở thành biểu tượng cho sự suy tàn, bế tắc của nền giáo dục Nho học.

Hai câu thực: Cảnh tượng sĩ tử và quan trường

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Hai câu thực đi vào miêu tả chân thực khung cảnh trường thi với một cái nhìn đầy châm biếm.

"Lôi thôi sĩ tử" gợi ra hình ảnh các sĩ tử đi thi với dáng vẻ nhếch nhác, nghèo khổ, vai đeo lọ mực, giấy bút. Nếu trước đây sĩ tử là tầng lớp trí thức được coi trọng thì nay lại xuất hiện với dáng vẻ khốn đốn, lạc hậu, phản ánh sự xuống cấp nghiêm trọng của nền giáo dục.

"Ậm oẹ quan trường" là hình ảnh quan giám khảo đọc đề và giám sát kỳ thi, nhưng giọng điệu lại uể oải, thiếu trách nhiệm. Cụm từ “ậm oẹ” gợi ra âm thanh thiếu dứt khoát, thể hiện sự làm việc một cách qua loa, không còn nghiêm túc như trước.

Sự nhếch nhác của sĩ tử và sự hời hợt của quan trường phản ánh sự bệ rạc của nền khoa cử. Một nền học vấn không còn được coi trọng thì cũng không thể nào sản sinh ra nhân tài thực sự.

Hai câu luận: Sự thao túng của thực dân Pháp

Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,

Váy lê quét đất, mụ đầm ra.

Hai câu luận đẩy giọng điệu trào phúng lên đỉnh điểm khi miêu tả sự hiện diện đầy lố bịch của quan chức thực dân Pháp ngay trong kỳ thi truyền thống của Việt Nam.

"Lọng cắm rợp trời" là hình ảnh biểu trưng cho sự quyền uy, nhưng ở đây lại thuộc về quan sứ Pháp, kẻ ngoại bang đang cai trị nước ta.

"Váy lê quét đất" miêu tả vợ quan sứ Pháp (mụ đầm) xuất hiện tại trường thi. Hình ảnh này càng làm nổi bật sự phi lý, phản cảm, bởi trường thi vốn là nơi của những kẻ sĩ, của nền giáo dục Nho học, nay lại bị biến thành nơi phô trương quyền lực của kẻ ngoại xâm.

Hai câu thơ vừa có tính châm biếm sâu cay, vừa là lời tố cáo gay gắt về thực trạng triều đình nhà Nguyễn bạc nhược, để thực dân Pháp thao túng ngay cả lĩnh vực giáo dục.

Hai câu kết: Nỗi đau mất nước và sự bất lực của trí thức

Nhân tài đất Bắc nào ai đó?

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!

Hai câu thơ kết thể hiện nỗi đau xót và sự bất lực của Trần Tế Xương trước thực trạng thi cử và đất nước.

"Nhân tài đất Bắc nào ai đó?" là một câu hỏi tu từ đầy chua chát. Khoa cử vốn là nơi sản sinh nhân tài, nhưng với tình trạng suy thoái như thế này, liệu còn có nhân tài thực sự hay không? Hay chỉ còn lại những kẻ học để lấy danh lợi mà không có thực học?

"Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!" – một lời kêu gọi hãy nhìn lại thực trạng đất nước, nhưng đồng thời cũng mang hàm ý đầy tiếc nuối, bất lực. Nhà thơ đau đớn nhận ra rằng nền giáo dục đã không còn đủ sức vực dậy đất nước trong bối cảnh thực dân Pháp đang xâm lăng.

Từ giọng điệu trào phúng, bài thơ khép lại bằng một nỗi buồn thương và tiếc nuối, thể hiện tấm lòng yêu nước sâu sắc của tác giả.

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương là một tác phẩm trào phúng xuất sắc của Trần Tế Xương, phản ánh sự suy tàn của nền khoa cử phong kiến Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp.

Bằng giọng điệu châm biếm sâu cay kết hợp với nỗi xót xa thầm kín, bài thơ không chỉ lên án thực trạng khoa cử rệu rã, quan trường tha hóa mà còn bày tỏ sự bất lực và nỗi đau của người trí thức trước thời cuộc.

Bài thơ mang giá trị hiện thực sâu sắc khi vạch trần sự tha hóa của nền giáo dục phong kiến, đồng thời thể hiện tư tưởng yêu nước của một kẻ sĩ có ý thức sâu sắc về vận mệnh dân tộc.

Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương mẫu số 3

Trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ ca không chỉ là phương tiện biểu đạt cảm xúc cá nhân mà còn là công cụ để phản ánh hiện thực xã hội. Đặc biệt, ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX, khi đất nước ta rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp, nền khoa cử phong kiến cũng dần suy tàn, kéo theo đó là những biến đổi lớn trong đời sống trí thức. Trần Tế Xương (Tú Xương) – một nhà thơ trào phúng kiệt xuất, đã dùng ngòi bút sắc sảo của mình để ghi lại bức tranh hiện thực ấy.

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện sự suy tàn của nền khoa cử Nho học, đồng thời bộc lộ thái độ châm biếm, phê phán và nỗi xót xa của tác giả trước cảnh nước mất nhà tan.

Khoa thi Hương là một trong những kỳ thi quan trọng trong chế độ phong kiến, tổ chức ba năm một lần để tuyển chọn nhân tài. Tuy nhiên, vào khoa thi Đinh Dậu (1897), trường thi Hà Nội đã bị thực dân Pháp chiếm đóng, khiến sĩ tử Hà Nội phải dồn về trường thi Nam Định.

Sự kiện này không chỉ phản ánh sự rối ren của nền giáo dục phong kiến mà còn cho thấy sự can thiệp ngày càng sâu của thực dân Pháp vào hệ thống thi cử truyền thống. Trước thực trạng đó, Trần Tế Xương đã sáng tác bài thơ Vịnh khoa thi Hương để thể hiện thái độ châm biếm sâu cay, đồng thời bộc lộ nỗi đau và sự tiếc nuối của một kẻ sĩ trước vận mệnh đất nước.

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Hai câu thơ mở đầu giới thiệu về kỳ thi một cách khách quan, nhưng ẩn chứa trong đó là sự châm biếm, mỉa mai. Trước đây, trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định vốn tổ chức riêng biệt, nhưng nay lại phải "lẫn" vào nhau. Từ “lẫn” không chỉ thể hiện sự gộp chung địa điểm thi mà còn hàm ý về sự rối loạn, mất trật tự của nền thi cử.

Không còn sự phân định rạch ròi giữa các vùng miền, không còn sự tôn nghiêm vốn có của khoa cử, tất cả chỉ còn là một biểu tượng cho sự suy tàn của chế độ giáo dục cũ.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Hình ảnh sĩ tử hiện lên với vẻ lôi thôi, nhếch nhác, trái ngược hoàn toàn với hình ảnh kẻ sĩ thanh cao của ngày xưa. Những người đi thi mang theo mình cả giấc mơ công danh, nhưng giờ đây chỉ còn là những kẻ vật vờ, mệt mỏi, không rõ tương lai.

Không chỉ sĩ tử, quan trường – những người có trách nhiệm tổ chức kỳ thi – cũng tỏ ra hời hợt, thiếu nghiêm túc. Cụm từ “ậm oẹ” không chỉ gợi âm thanh lười nhác, thiếu trách nhiệm mà còn phản ánh sự rệu rã, mất đi khí chất uy nghiêm của một nền khoa cử từng là niềm tự hào.

Ở đây, Trần Tế Xương không cần lên án gay gắt, chỉ một vài hình ảnh chấm phá cũng đủ để lột tả sự sa sút của nền giáo dục Nho học.

Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,

Váy lê quét đất, mụ đầm ra.

Hai câu luận đã đẩy sự châm biếm lên đến đỉnh điểm khi miêu tả sự xuất hiện của quan sứ Pháp ngay trong kỳ thi Nho học của người Việt.

“Lọng cắm rợp trời” – vốn là hình ảnh gắn liền với sự trang trọng, tôn nghiêm, nhưng ở đây lại dùng để đón tiếp quan sứ Pháp, kẻ đang cai trị nước ta.

“Váy lê quét đất” – hình ảnh mụ đầm (vợ quan sứ) xuất hiện một cách lố bịch, vô duyên, càng nhấn mạnh sự mất chủ quyền và nỗi đau mất nước.

Khoa thi, vốn là nơi tuyển chọn nhân tài cho triều đình, nay lại trở thành một sân khấu để thực dân phô trương quyền lực. Sự kiện này không chỉ làm mất đi tính thiêng liêng của khoa cử, mà còn là dấu hiệu rõ ràng cho thấy sự suy yếu của triều đình nhà Nguyễn trước sự đô hộ của thực dân.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó?

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!

Nếu như những câu thơ trước mang đậm chất trào phúng, thì hai câu kết lại chứa đựng sự tiếc nuối và nỗi đau sâu sắc.

Câu hỏi "Nhân tài đất Bắc nào ai đó?" như một lời chua xót và đầy hoài nghi. Một nền khoa cử suy tàn thì liệu còn có nhân tài thực sự hay không?

Câu cuối "Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!" – như một tiếng thở dài đầy day dứt. Nhìn lại đất nước mà thấy đau lòng, thấy tiếc nuối, thấy bất lực trước thời cuộc đổi thay.

Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh cay đắng, tiếc nuối, nhưng cũng đầy trăn trở, thể hiện tấm lòng yêu nước và nỗi lòng kẻ sĩ trước cảnh nước mất, nhà tan.

Bài thơ Vịnh khoa thi Hương không chỉ là một tác phẩm trào phúng xuất sắc mà còn là một bản cáo trạng mạnh mẽ về sự suy tàn của nền khoa cử Nho học trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp chi phối.

Bằng giọng điệu mỉa mai nhưng đầy xót xa, Trần Tế Xương đã vạch trần sự nhố nhăng, sự tha hóa của nền giáo dục phong kiến, đồng thời thể hiện tâm trạng đau đớn, bất lực của một kẻ sĩ trước vận mệnh đất nước.

Dù đã hơn một thế kỷ trôi qua, nhưng bài thơ vẫn còn nguyên giá trị, như một lời nhắc nhở sâu sắc về tầm quan trọng của tri thức, của nhân tài và tinh thần yêu nước chân chính.

Lưu ý: Nội dung chỉ mang tính chất tham khảo!

Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương ngắn gọn, cảm xúc? Học sinh lớp 8 phải ứng xử với giáo viên như thế nào?

Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương ngắn gọn, cảm xúc? Học sinh lớp 8 phải ứng xử với giáo viên như thế nào? (Hình từ Internet)

Học sinh lớp 8 phải ứng xử với giáo viên như thế nào?

Tại Điều 8 Thông tư 06/2019/TT-BGDĐT quy định về quy tắc ứng xử đối với học sinh lớp 8 trong cơ sở giáo dục phổ thông như sau:

- Ứng xử với cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên: Kính trọng, lễ phép, trung thực, chia sẻ, chấp hành các yêu cầu theo quy định. Không bịa đặt thông tin; không xúc phạm tinh thần, danh dự, nhân phẩm, bạo lực.

- Ứng xử với người học khác: Ngôn ngữ đúng mực, thân thiện, trung thực, hợp tác, giúp đỡ và tôn trọng sự khác biệt. Không nói tục, chửi bậy, miệt thị, xúc phạm, gây mất đoàn kết; không bịa đặt, lôi kéo; không phát tán thông tin để nói xấu, làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm người học khác.

- Ứng xử với cha mẹ và người thân: Kính trọng, lễ phép, trung thực, yêu thương.

- Ứng xử với khách đến cơ sở giáo dục: Tôn trọng, lễ phép

Như vậy, học sinh lớp 8 ứng sử với giáo viên một cách kính trọng, lễ phép, trung thực, chia sẻ, chấp hành các yêu cầu theo quy định. Không bịa đặt thông tin; không xúc phạm tinh thần, danh dự, nhân phẩm, bạo lực.

Quy tắc ứng xử của giáo viên đối với học sinh lớp 8 như thế nào?

Căn cứ Điều 6 Thông tư 06/28019/TT-BGDĐT quy định về việc ứng xử của giáo viên đối với học sinh lớp 8 như sau:

- Ngôn ngữ chuẩn mực, dễ hiểu, khen hoặc phê bình phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh;

- Mẫu mực, bao dung, trách nhiệm, yêu thương;

- Tôn trọng sự khác biệt, đối xử công bằng, tư vấn, lắng nghe và động viên, khích lệ người học;

- Tích cực phòng, chống bạo lực học đường, xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện.

- Không xúc phạm, gây tổn thương, vụ lợi; không trù dập, định kiến, bạo hành, xâm hại;

- Không thờ ơ, né tránh hoặc che giấu các hành vi vi phạm của người học.

Môn Ngữ văn lớp 8
Cùng chủ đề
Hỏi đáp Pháp luật
Ẩn dụ là gì? Ví dụ về biện pháp tu từ ẩn dụ? Câu hỏi tu từ được học trong chương trình môn Ngữ Văn lớp mấy?
Hỏi đáp Pháp luật
Điệp ngữ là gì? Ví dụ về biện pháp tu từ điệp ngữ? Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn hiện nay ra sao?
Hỏi đáp Pháp luật
Hướng dẫn cách soạn văn bài Quang Trung đại phá quân Thanh? Những tiêu chí nào cần đạt khi đọc hiểu văn bản văn học trong ngữ văn lớp 8?
Hỏi đáp Pháp luật
Tổng hợp 10 mẫu viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích hay, chất lượng?
Hỏi đáp Pháp luật
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi hương của Trần Tế Xương ngắn gọn, cảm xúc? Học sinh lớp 8 phải ứng xử với giáo viên như thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Soạn văn 8 bài Lá Đỏ mới nhất 2025? Trách nhiệm với môi trường sống của học sinh lớp 8 thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Bộ đề cương ôn thi giữa kì 2 môn Ngữ văn lớp 8 mới nhất 2025? Phương pháp giáo dục môn Ngữ Văn lớp 8 có những định hướng nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Soạn bài Đánh nhau với cối xay gió môn Ngữ văn lớp 8 tập 2? Yêu cầu quy trình viết môn Ngữ văn lớp 8?
Hỏi đáp Pháp luật
Soạn văn bài Những ngôi sao xa xôi lớp 8 năm 2025? Phương pháp giáo dục môn Ngữ Văn lớp 8 có định hướng ra sao?
Hỏi đáp Pháp luật
8+ Mẫu viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ về một bài thơ tự do Đồng chí? Yêu cầu cầu về nói và nghe ở môn Ngữ văn lớp 8 cần đạt những gì?
Tác giả: Mạc Duy Văn
Lượt xem: 1263
Bài viết mới nhất

Đăng ký tài khoản Lawnet

Đơn vị chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3935 2079
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;