Mẫu phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8? Học sinh được học thơ trào phúng từ lớp mấy?
Mẫu phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8?
Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu của Trần Tế Xương là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách trào phúng của nhà thơ, phản ánh một cách sinh động hiện thực xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Để phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu, chúng ta cần tập trung vào nội dung hiện thực, giọng điệu trào phúng, nghệ thuật ngôn từ, và ý nghĩa phê phán mà Trần Tế Xương muốn truyền tải. Dưới đây là mẫu phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu mà học sinh có thể tham khảo.
Mẫu phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu số 1:
Trần Tế Xương, được biết đến với bút danh Tú Xương, là một nhà thơ danh tiếng với sự nổi bật trong hai lĩnh vực trữ tình và trào phúng. Một trong những tác phẩm đáng chú ý của ông trong lĩnh vực trào phúng là bài thơ "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu". Năm 1886, do việc Pháp chiếm đóng Hà Nội, trường thi Hương Hà Nội đã bị hủy. Lo ngại về phản ứng của dân chúng, Pháp đã quyết định tổ chức thi kết hợp giữa trường thi Hương Hà Nội và trường Nam Định, được biết đến với tên gọi là trường Hà - Nam. Bài thơ trên được Tú Xương sáng tác trong thời gian ông tham gia kỳ thi này. Dự lễ xướng danh vào ngày 27/12/1897 có sự hiện diện của vợ chồng Paul Doumer - Thống đốc Đông Dương và vợ chồng Lơ Noóc-măng - đại diện cho Nam Định. Để mở đầu, Tú Xương đã trình bày một số nét chính về khoa thi Đinh Dậu thông qua hai câu thơ đầu tiên: “Nhà nước ba năm mở một khoa, Trường Nam thi lẫn với trường Hà.” "Trường Nam" ở Nam Định và "trường Hà" ở Hà Nội là hai trong số những trường thi Hương nổi tiếng ở Bắc kì trong quá khứ. Tuy nhiên, sau khi Pháp chiếm lĩnh Hà Nội, trường thi ở đây đã bị loại bỏ, khiến cho các thí sinh tại Hà Nội buộc phải dự thi tại trường Nam Định. Từ "lẫn" đã phản ánh một không gian hỗn độn, mất mát trang trọng của kì thi Hương. Sau đó, việc nhập trường và lễ xướng danh diễn ra trong một bầu không khí đầy khôi hài: “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” Thuật ngữ "sĩ tử" thường được sử dụng để mô tả những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo đuổi nghệ thuật và văn chương. Thường thì họ được mô tả như những người có phong thái lịch lãm và điềm tĩnh. Tuy nhiên, trong bài thơ này, hình ảnh "sĩ tử" lại được mô tả với vẻ lôi thôi và nhếch nhác. Trường thi, nơi thường trang nghiêm, giờ đây lại trở thành một cảnh như hội chợ, với viên quan "ậm oẹ" và "thét loa", tạo nên một bối cảnh nhố nhăng không khác gì chợ địa phương. Chi tiết này, tuy nhỏ, nhưng lại phản ánh chân thực về tình hình xã hội vào thời điểm đó. Tính trào phúng tiếp tục được thể hiện khi tác giả mô tả "quan sứ" và "mụ đầm". Dù đây là một kì thi quan trọng của đất nước, nhưng hình ảnh được mô tả lại là hài hước và nhố nhăng, đặc biệt là cảnh đón tiếp "quan sứ" với "cờ kéo rợp trời", như lễ đón tiếp lũ cướp nước với sự long trọng. Thêm vào đó, chốn trường thi, thường được xem là nơi tôn nghiêm và lễ giáo, lại xuất hiện hình ảnh "mụ đầm ra" với "váy lê quét đất", tăng thêm sự hài hước và góp phần làm nổi bật sự suy thoái của đất nước vào thời điểm đó. Hai câu cuối của bài thơ là nơi tác giả bộc lộ nỗi đau xót trước tình trạng mất nước của đất nước, tạo nên sự hài hước và tiếc nuối đan xen: “Nhân tài đất Bắc nào ai đó? Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.” Tại đây, nhà thơ đã sử dụng câu hỏi "nhân tài đất Bắc nào ai đó" như một cách để đánh thức nhận thức của các sĩ tử về sự nhục nhã và đau đớn của việc mất nước. Trong bối cảnh kẻ thù xâm lược vẫn tồn tại, ý nghĩa của việc theo đuổi công danh trở nên mơ hồ và không còn ý nghĩa. Bài thơ "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" không chỉ là một tác phẩm phản ánh chân thực về tình hình đất nước vào thời điểm đó, mà còn là biểu hiện của phong cách sáng tác độc đáo của Tú Xương. Tác phẩm này không chỉ mô tả khắc nghiệt về tình trạng xã hội mà còn truyền đạt được cảm xúc đau đớn và xót xa của tác giả trước tình hình của đất nước. |
Mẫu phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu số 2:
Tú Xương là một nhà thơ có rất nhiều tác phẩm được yêu thích. Bài thơ "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" là một ví dụ điển hình về sự trào phúng của ông. Trong bài thơ này, ông đã bắt đầu bằng cách mô tả về khoa thi Đinh Dậu, một sự kiện có thực trong quá khứ lịch sử: “Nhà nước ba năm mở một khoa, Trường Nam thi lẫn với trường Hà.” Trong bối cảnh thực dân Pháp chiếm đóng và kiểm soát chính quyền, việc tổ chức thi cử đã trở nên phức tạp hơn. Mặc dù vẫn tuân theo lộ trình truyền thống "ba năm mở một khoa" cho thi chữ Hán, nhưng quy trình đã trở nên lộn xộn hơn khi "Trường Nam thi lẫn với trường Hà". Trong khu vực Bắc Kì, trước đây có hai trường thi: trường Nam Định và trường Hà Nội. Nhưng do sự can thiệp của Pháp, trường thi ở Hà Nội đã bị loại bỏ. Điều này dẫn đến việc các sĩ tử từ Hà Nội phải thi cùng với các sĩ tử ở trường Nam Định. Đến phần tiếp theo của đoạn văn, mô tả về cảnh mở cửa trường và lễ xướng danh đã mang đến những tình huống khôi hài: “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” "Sĩ tử" thường là những người ở tầng lớp trí thức của xã hội phong kiến và thường có phong cách lịch sự khi viết văn. Tuy nhiên, trong đoạn văn này, hình ảnh của họ lại trở nên thô lỗ và thiếu tôn trọng. Việc sử dụng biện pháp ngôn ngữ đặc biệt, như việc đặt từ "lôi thôi" ở đầu câu thơ, đã tạo ra một ấn tượng đáng nhớ. Thêm vào đó, không gian trường thi không còn mang đậm bầu không khí tôn nghiêm mà lại như một bản giao hưởng ồn ào, như một chợ sầm uất, khiến người theo dõi cảm thấy vừa mỉa mai vừa đau lòng trước tình hình của đất nước thời đó. “Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến; Váy lê quét đất, mụ đầm ra.” Một kỳ thi quan trọng của đất nước, nhưng hình ảnh mà đoạn văn mô tả - "cờ kéo rợp trời" - cho thấy sự long trọng trong việc đón tiếp "quan sứ," những người được coi là lũ cướp nước. Không chỉ thế, trường thi từ lâu đã là biểu tượng của sự trang trọng và nghiêm túc, với phong tục phụ nam tránh nữ. Tuy nhiên, giờ đây, hình ảnh "mụ đầm ra" với "váy lê quét đất" xuất hiện, làm tăng thêm sự hài hước. Qua chi tiết này, chúng ta có thể nhìn thấy sự suy thoái và hạn chế của đất nước trong thời điểm đó. Cuối cùng, tác giả đã tỏ ra rõ ràng về tâm trạng của mình trước tình cảnh đó: “Nhân tài đất Bắc nào ai đó? Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.” Câu hỏi từ "nhân tài đất Bắc nào ai đó" không phải để tìm kiếm câu trả lời. Đó là một lời nhắc nhở cho các sĩ tử về nỗi đau mất nước. Khi kẻ thù vẫn còn tồn tại, thì việc theo đuổi danh vọng trong kỳ thi này còn ý nghĩa gì nữa? Bài thơ "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu" đã mô tả một bức tranh trường thi rối bời, từ đó đẩy mạnh sự châm biếm về tình hình đất nước bị xâm lược trong bối cảnh thời đại hỗn tạp giữa phong kiến và thực dân. |
Lưu ý: Nội dung chỉ mang tính chất tham khảo.
Mẫu phân tích bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu lớp 8? Học sinh được học thơ trào phúng từ lớp mấy? (Hình từ Internet)
Học sinh được học thơ trào phúng từ lớp mấy?
Căn cứ Mục 5 Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT quy định về nội dung giáo dục của học sinh lớp 8 với kiến thức văn học như sau:
KIẾN THỨC VĂN HỌC
1.1. Tưởng tượng trong tác phẩm văn học
1.2. Nhan đề và cách đặt nhan đề văn bản
1.3. Đề tài và chủ đề, cách xác định chủ đề; kết cấu
2.1. Cốt truyện, bối cảnh, nhân vật, ngôn ngữ trong truyện cười, truyện lịch sử
2.2. Cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến
2.3. Các thủ pháp nghệ thuật chính của thơ trào phúng
2.4. Một số yếu tố thi luật của thơ thất ngôn bát cú và thơ tứ tuyệt luật Đường: bố cục, niêm, luật, vần, nhịp, đối
2.5. Một số yếu tố hình thức của một bài thơ: từ ngữ, hình ảnh, bố cục, mạch cảm xúc
2.6. Xung đột, hành động, nhân vật, lời thoại, thủ pháp trào phúng trong kịch bản văn học (hài kịch)
2.7. Một số yếu tố hình thức của thơ tự do (sáu, bảy chữ): số lượng câu, chữ, vần, nhịp
3.1. Người đọc và cách tiếp nhận riêng đối với một văn bản văn học
3.2. Nội dung phản ánh và cách nhìn cuộc sống, con người của tác giả
...
Như vậy, xuyên suốt Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn của 12 khối lớp, thể loại thơ trào phúng xuất hiện đầu tiên trong nội dung lớp 8. Do đó, thơ trào phúng sẽ được học bắt đầu từ học sinh lớp 8.
Yêu cầu cần đạt đối với học sinh lớp 8 khi học thơ trào phúng là gì?
Căn cứ Mục 5 Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ Văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT quy định yêu cầu cần đạt đối với học sinh lớp 8 khi học thơ trào phúng bao gồm:
- Nhận biết và phân tích được tác dụng của một số thủ pháp nghệ thuật chính của thơ trào phúng.
- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của hài kịch như: xung đột, hành động, nhân vật, lời thoại, thủ pháp trào phúng.
- 03 bộ đề Cuộc thi trực tuyến Quân đội nhân dân Việt Nam 80 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành 2024 tuần 1 có đáp án?
- Lịch nghỉ lễ 30 tháng 4, 01 tháng 5 năm 2025 của học sinh, giáo viên cả nước ra sao?
- Trọn Bộ tài liệu an toàn giao thông cho nụ cười ngày mai tải miễn phí? Phổ biến, giáo dục pháp luật phải đảm bảo những nguyên tắc nào?
- Tết Âm lịch 2025 vì sao không có ngày 30 Tết? Giáo viên được nghỉ bao nhiêu ngày trong năm?
- Giảng viên cao đẳng sư phạm chính mã số V.07.08.21 được áp dụng hệ số lương nào?
- Tác phẩm nào được xem là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác?
- Top 5 tóm tắt Hải khẩu linh từ hay nhất? Học sinh lớp 12 được nghỉ tối đa bao nhiêu buổi trong năm 2024 2025?
- Mùng 1 Tết 2025 là ngày mấy dương lịch? Tết 2025 chính thức được nghỉ 9 ngày?
- 3 bài văn nghị luận xã hội hay nhất về ý nghĩa của việc học ngoại ngữ thời hiện đại? Môn Ngữ văn lớp 12 có bao nhiêu chuyên đề học tập?
- Nhật thực và nguyệt thực khác nhau như thế nào? Thiết bị dạy học tối thiểu môn Lịch sử và Địa lí ra sao?