TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG – TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 07/2017/DS-ST NGÀY 25/09/2017 VỀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
Trong ngày 25 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 17/2017/TLST- DS, ngày 29/5/2017 về “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2017/QĐXX – ST, ngày 25 tháng 8 năm 2017; Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2017/DS - ST ngày 14/9/2017 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn : Bà Trần Thị K, sinh năm 1973
Địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện S, tỉnh Bắc Giang. Có mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Trần Thị K: ông Hoàng Trọng Ng, trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Giang. Có mặt
* Bị đơn: Ông Trương Văn C, sinh năm 1961. Có mặt
Bà Trần Thị S, sinh năm 1964
Ông Trương Văn T, sinh năm 1973. Vắng mặt
Địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Trương Thị P, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Thôn L, xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt
Bà Trương Thị K1, sinh năm 1970.
Địa chỉ: Thôn C, xã L, huyện, tỉnh Bắc Giang. Vắng mặt
(Bà Trần Thị S ủy quyền toàn bộ cho ông Trương Văn C tham gia tố tụng).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo có trong hồ sơ cũng như tại phiên toà hôm nay nguyên đơn bà Trần Thị K trình bầy:
Về nguồn gốc lô đất bà khởi kiện ông Trương Văn C, bà Trần Thị S là của cụ Trương Văn L (bố chồng bà) có từ trước năm 1993, ngày 12/10/2003 được UBND huyện S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q857911 với diện tích 289m2 đất ở, không có số lô, khoảnh, thuộc thôn L, xã L, huyện S, người mang tên sổ là ông Trương Văn L; thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chỉ có cụ L, ông T, bà K1, bà P, ngoài ra không còn ai khác, bà không có phần được cấp đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cụ L (Vợ cụ L chết khoảng năm 1983, cụ L chết tháng 02 năm 2015) .
Bà kết hôn với ông Trương Văn T là con trai ông L năm 1995, bà và ông Th đã sinh được 03 người con, năm 2013 bà và ông T đã ly hôn nhau; quá trình chung sống do ông T không chịu làm ăn, hay rượu chè nên ngày 24/11/2012 ông Trương Văn L đã làm giấy ủy quyền cho bà được thừa kế với nội dung bà có quyền quản lý, sử dụng lâu dài diện tích đất 289m2 đất ở thuộc thôn L, xã L, huyện S; giấy ủy có chữ ký của bà, ông L và người làm chứng ông Trương Công D, ông Trương Văn C người cùng thôn, có xác nhận của UBND xã L. Quá trình ông L làm di chúc thì bà K1, bà P đều biết nhưng không ai có ý kiến gì, trong di chúc ông T cũng được chia 400m2 đất nông nghiệp số tờ bản đồ 25, số thửa 28 thuộc khu C, thôn L, xã L, huyện S; tháng 2/2015 ông Trương Văn L chết thì di chúc đã có hiệu lực. Từ khi bà được ông L giao cho quản lý đất nhưng ông T vẫn quản lý ở, bà có yêu cầu giao đất nhưng ông T không chịu giao cho bà.
Ngày 22/12//2016 ông Trương Văn T đã tự ý bán 88,7m2 đất ở trên cho ông Trương Văn C người cùng thôn, việc mua bán hai bên như thế nào, giá cả bao nhiêu bà không được biết, vì thời gian đó bà đi làm ăn không có nhà. Hiện diện tích đất 88,7m2 gia đình ông C, bà S đang quản lý đổ đất, xây tường bao và làm nhà gỗ tạm.
Đất trên là do của bố chồng bà đã giao lại cho bà toàn quyền quản lý, sử dụng, việc mua bán giữa ông C với ông T chưa được sự đồng ý của bà, bà K1 và bà P là trái quy định của pháp luật. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng mua bán đất giữa ông Trương Văn T với ông Trương Văn C vô hiệu; ngoài ra bà không có yêu cầu gì khác.
* Bị đơn ông Trương Văn T xác nhận một phần lời khai của bên nguyên đơn bà K, bên bị đơn ông H, bà N tại các lời trình bầy trong quá trình tham gia tố tụng như sau:
Về nguồn gốc lô đất là của bố ông là Trương Văn L khai hoang phục hóa, canh tác từ những năm 1980; ngày 12/10/2003 được UBND huyện S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q857911 với diện tích 289m2 đất ở, không có số lô, khoảnh, thôn L, xã L, huyện S người mang tên sổ là ông Trương Văn L.
Bố mẹ ông sinh được có 3 anh em gồm: ông, bà Trương Thị K1, sinh năm 1970 và bà Trương Thị P, sinh năm 1976, về con nuôi không có; mẹ ông đã chết khoảng năm 1983, bố ông đã chết tháng 02 năm 2015; ông kết hôn với bà Trần Thị K năm 1995 và đã ly hôn năm 2013. Quá trình bố mẹ ông chết thì không để lại di chúc gì cả, việc bà K xuất trình bản di chúc do bố ông giao lại đất cho bà K ông không được biết.
Do khó khăn về kinh tế nên ngày 22/12/2016 ông đã bán 88,7m2 đất ở nằm trong diện tích đất 289m2 cho ông Trương Văn C người cùng thôn với giá là 22.000.000đ, việc mua bán có làm giấy mua bán và nhận tiền đầy đủ, giấy chuyển nhượng có chữ ký của ông với ông C, có xác nhận của thôn, người làm chứng, không có xác nhận của UBND xã hay công chứng, chứng thực gì cả. Hiện diện tích đất mua bán gia đình ông C, bà S đang quản lý.
Đất trên do của bố ông chết để lại cho ông quản lý là đúng quy định của pháp luật nên ông có quyền bán, nay bà K yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không có căn cứ, ông không chấp nhận. Ngoài ra ông không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu hay có yêu cầu gì khác.
* Bị đơn ông Trương Văn C xác nhận một phần lời khai của bên nguyên đơn bà K, bên bị đơn ông T tại các bản khai, lời trình bầy trong quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa như sau:
Do ông T bảo có nhu cầu cần tiền muốn bán 01 lô đất ở, gia đình ông thì đang có nhu cầu mua đất, ngày 22/12/2016 ông có mua của ông Trương Văn T 01 lô đất ở diện tích khoảng 80m2 thuộc thôn L, xã L, huyện S với giá là 22.000.000đ (khi hai bên mua bán giao đất cho nhau chỉ định lượng khoảng 80m2 chứ không đo đạc gì cả). Quá trình mua bán giữa hai bên có giấy viết tay ký kết giữa ông và ông T và có xác nhận của Ban quản lý thôn Lạnh, có người chứng kiến, không có công chứng hay chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hai bên đã giao tiền và giao đất cho nhau, trên đất không có tài sản gì cả. Quá trình mua bán ông T không xuất trình giấy tờ gì liên quan đến đất mua bán cho ông xem gì cả. Theo ông hiểu thì đất ông T bán cho ông là đất của bố ông T (Trương Văn L) chết để lại cho ông T, còn việc ông L chết để lại đất theo di chúc cho bà K như thế nào ông không được biết. Số tiền mua bán đất với ông T là tiền của gia đình ông và đất là cũng mua chung cho gia đình sử dụng.
Quá trình mua bán đất giữa ông T với ông thì bà K không được biết; đất từ khi mua cho đến nay gia đình đã dựng nhà gỗ tạm và đổ đất xây tường bao.
Đất là do bố ông T chết để lại cho gia đình ông T quản lý, ông đã mua bán với ông T là ngay tình, nay bà K khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng giữa ông với ông T vô hiệu ông không đồng ý, nếu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì ông không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu, ông không có yêu cầu gì khác; nếu sau này ông T không trả tiền và bồi thường tài sản cho ông thì ông yêu cầu giải quyết bằng vụ án khác.
* Bị đơn bà Trần Thị S xác nhận một phần lời khai của bên nguyên đơn bà K, bên bị đơn ông T tại bản tự khai, lời trình bầy trong quá trình tham gia tố tụng như ý kiến quan điểm cho người được ủy quyền ông Trương Văn C đã trình bầy; bà K khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán giữa ông C chồng bà với ông T vô hiệu bà không đồng ý, nếu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng vô hiệu bà không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, bà không có yêu cầu gì khác.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị K1, bà Trương Thị P xác nhận một phần lời khai của bên nguyên đơn, bên bị đơn trong quá trình tham gia tố tụng như sau;
Chúng tôi là con gái của cụ Trương Văn L, toàn bộ diện tích đất ở và đất trong 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bố chúng tôi Trương Văn L thì khi đó cấp cho chúng tôi, bố chúng tôi và ông T; Bà K về làm dâu đất đã có từ trước nên không được cấp trong đó; Sau khi chúng tôi lập gia đình, toàn bộ đất nông nghiệp gia đình đã tự phân chia ổn định và cũng từ khi bố chúng tôi giao cho bà K được ủy quyền thừa kế quản lý đất thì các thành viên trong gia đình của bố tôi đều biết nhưng không ai có ý kiến gì (bố chúng tôi có 3 người con đã lập gia đình), trong đó ông T cũng được chia cho 400m2 đất nông nghiệp số tờ bản đồ 25, số thửa 28, thuộc khu C, thôn L, xã L, huyện S. Bà K lấy ông Trương Văn T đã sinh được 03 người con, năm 2013 bà Kính và ông T đã ly hôn nhau; do ông T không chịu làm ăn, hay rượu chè nên ngày 24/11/2012 bố chúng tôi đã làm giấy ủy quyền thừa kế quyền sử dụng đất cho bà K được quản lý, sử dụng lâu dài diện tích đất nông nghiệp + đất ở tại thôn L, giấy ủy quyền có các bên cùng ký, có người làm chứng và có xác nhận của UBND xã L. Mẹ chúng tôi đã chết khoảng năm 1983, bố đã chết tháng 02 năm 2015.
Ngày không nhớ trong tháng 6/2016 ông Trương Văn T đã tự ý bán khoảng 117m2 đất ở (gồm cả đất hành lang) thuộc thôn L, xã L, huyện S cho ông Trương Văn C người cùng thôn khi chưa được sự đồng ý của bà K và chị em chúng tôi, việc mua bán hai bên như thế nào, giá cả bao nhiêu chúng tôi không được biết. Hiện diện tích đất mua bán gia đình ông C, bà S đang quản lý, canh tác.
Đất trên là đất chung của gia đình chúng tôi do bố tôi quản lý và đã ủy quyền thừa kế giao lại cho bà K quản lý, sử dụng lâu dài; anh em chúng tôi không có tranh chấp gì về tài sản chung hay tài sản thừa kế bố chúng tôi chết để lại, không có yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề trên. Việc mua bán giữa ông
C với ông T chưa được sự đồng ý của bà K và chúng tôi là trái quy định của pháp luật. Nay bà K khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu là có căn cứ, còn về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu chúng tôi không có ý kiến gì, yêu cầu thì Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật toàn bộ các yêu cầu trên.
Ngày 09 tháng 8 năm 2017 Toà án cùng các cơ quan chuyên môn đã xem xét và thẩm định tại chỗ diện tích đất mua bán theo hợp đồng (hình thức đo đất bằng máy định vị GPS), kết quả xem xét các cạnh như sau: Từ điểm A – B (Giáp đường thôn) dài 7,4m; từ điểm B – C (Giáp đất ông T) dài 17,49m; từ điểm C – D (Giáp đất đồi phía sau) dài 3,48m; từ điểm A - D (giáp đất ông Th) dài 14,81m. Tổng diện tích đất: 88,7m2 (có sơ đồ đo vẽ kèm theo).
Trên đất gia đình ông C, bà S đang quản lý có: 01 nhà gỗ 2 gian lợp pờ rô chưa có tường bao quanh, diện tích 5,15 x 3,6m = 18,54m2; 01cây soài có dường kính gốc từ 10 - 15cm; 01 cây mít có đường kính gốc từ 5 - 10cm; 01 cây khế có đường kính gốc từ 5 - 10cm; tường xây cay 1,4 x 17,49m = 24,486m2.
Đất đã được UBND huyện S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở lâu dài ngày 10/8/2003, số Q857911 diện tích 289m2, không có số tờ bản đồ, số thửa, thuộc thôn L, xã L, huyện S người mang tên sổ là ông Trương Văn L.
Các bên đương sự trong vụ án có mặt và đều nhất trí với kết quả thẩm định, không có ý kiến gì; những người vắng mặt gồm bị đơn ông Trương Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và Trương Thị K1, bà Trương Thị P; sau khi có kết quả thẩm định Tòa án đã gửi kết quả thẩm định bằng văn bản cho ông T, bà K1 và bà P được biết.
* Phần tranh luận của các đương sự tại phiên tòa:
Người bảo vệ quyền và lích ích hợp pháp cho nguyên đơn đưa ra luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn:
Di chúc thừa kế của ông Trương Văn L cho bà Trần Thị K đã có hiệu lực pháp luật và đúng theo quy định của pháp luật, đã có giá trị pháp lý.
Giấy chuyển nhượng đất giữa ông T với ông C là không đúng quy định của pháp luật về chủ thể chuyển nhượng cũng như hình thức.
Đề nghị Hội đồng xét xử: chấp nhận đơn khởi kiện của bà Trần Thị K; Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trương Văn T với ông Trương Văn C vô hiệu.
Nguyên đơn bà Trần Thị K: không có ý kiến tranh luận. Bị đơn ông Trương Văn C: không có ý kiến tranh luận.
* Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về tố tụng, về việc giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: kể từ khi thụ lý vụ án cho đến kết thúc phần tranh luận chuyển vào nghị án; Thẩm phán, Hội đồng xét xử cũng như việc chấp hành pháp luật của các đương sự thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên ông Trương Văn T, bà Trương Thị K1, bà Trương Thị P còn chấp hành giấy triệu tập chưa nghiêm túc, còn vắng mặt nhiều lần.
Về giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, 35, 147, 157, 158 – Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Điều 122, 127, 134, 410, 689, 698 - Bộ luật dân sự 2005. Khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013. Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ – UBTVQH 14, quy định về án phí, lệ phí Toà án .
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị K.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 22 tháng 12 năm 2016 giữa ông Trương Văn T và ông Trương Văn C vô hiệu.
Về giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Các đương sự trong vụ án không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Về án phí: Nguyên đơn, bị đơn đều thuộc hộ nghèo và là người dân tộc thiểu số nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Về phí thẩm định, định giá: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, yêu cầu của bị đơn không được chấp nhận nên bên bị đơn phải chịu toàn bộ tiền thẩm định, định giá theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị S đã ủy quyền toàn bộ cho ông Trương Văn C tham gia tố tụng là đúng theo quy định của pháp luật, cần được chấp nhận theo Điều 138 - Bộ luật dân sự.
Tại phiên tòa ông Trương Văn T, bà Trương Thị K1, bà Trương Thị P vắng mặt lần 2; do vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông T, bà K1, bà P theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và căn cứ quy định của pháp luật thì Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu”.
[3] Về nội dung:
Về nguồn gốc lô đất bà Trần Thị K khởi kiện ông Trương Văn C, bà Trần Thị S là của cụ Trương Văn L có từ trước năm 1980 nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến ngày 12/10/2013 được UBND huyện S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q857911 diện tích 289m2 đất ở, không có số lô, khoảnh, thuộc thôn L, xã L, huyện S mang tên ông Trương Văn L; thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kê khai những người trong gia đình chỉ có cụ L, ông T, bà K1, bà P, ngoài ra không còn ai nữa, đất có trước khi bà K về làm dâu nên bà K không có tên trong hồ sơ được kê khai (Vợ cụ L chết năm 1983, cụ L chết tháng 02 năm 2015).
Cụ Trương Văn L có 3 người con đẻ gồm ông T, bà K1, bà P, con nuôi không có. Bà K kết hôn với ông Trương Văn T là con trai cụ Trương Văn L năm 1995, bà K và ông T đã sinh được 03 người con, năm 2013 bà K và ông T đã ly hôn nhau. Quá trình bà K ở cùng ông T thì do ông T không chịu làm ăn, hay rượu chè nên ngày 24/11/2012 cụ Trương Văn L đã làm giấy ủy quyền thừa kế quyền sử dụng đất cho bà K với nội dung ủy quyền cho bà K quản lý, sử dụng lâu dài toàn bộ diện tích đất nông nghiệp và đất ở, trong đó có 289m2 ở thuộc thôn L, xã L, giấy ủy quyền có chữ ký của bà K, cụ L và người làm chứng ông Trương Công D, ông Trương Văn C người cùng thôn, có xác nhận của thôn và UBND xã L, khi bà K được thừa kế quản lý, sử dụng đất lâu dài thì bà K1, bà P đều biết nhưng không ai có ý kiến gì; trong di chúc ông T cũng được chia cho 400m2 đất nông nghiệp thuộc tờ bản đồ 25, số thửa 28, khu C, thôn L, xã L. Từ khi bà K được ông L giao cho bà K chưa quản lý ngày nào, do bà K có yêu cầu ông T giao đất nhưng ông T không chịu giao.
Ngày 22/12/2016 ông Trương Văn T bán 88,7m2 đất nằm trong diện tích 289m2 đất ở mà cụ Trương Văn L đã được UBND huyện S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q857911, không có số lô, khoảnh, thuộc thôn L, xã L cho ông Trương Văn C người cùng thôn với giá là 22.000.000đ, khi làm giấy chuyển nhượng có ông T và ông C ký với nhau và có xác nhận của chính quyền thôn, người làm chứng (diện tích đất ông T bán cho ông C bà K đã được cụ L ủy quyền thừa kế cho quản lý, sử dụng lâu dài), hai bên đã giao đất và nhận tiền của nhau xong, khi ông T bán đất cho ông C thì bà K, bà K1, bà P đều không biết, sau khi ông T bán cho ông C một thời gian bà K, bà K1 và bà P mới biết. Hiện diện tích đất mua bán gia đình ông C đang quản lý dựng nhà gỗ tạm, đổ đất và xây tường bao.
Quá trình giải quyết vụ án bà K cũng hoàn toàn thừa nhận toàn bộ diện tích đất ở trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q857911của gia đình ông L là có từ trước khi bà về làm dâu, toàn bộ đất ở bà không có phần; UBND xã L xác nhận cũng như bà K thừa nhận là đúng.
Tại phiên tòa bà Trần Thị K vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ban đầu, bà K yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và không có yêu cầu gì khác. Ông Trương Văn C, bà Trần Thị S không nhất trí yêu cầu của bà K, nhưng nếu Tòa án giải quyết tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì ông C, bà S không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, nếu sau này ông T không trả tiền mua bán và bồi thường tiền tài sản trên đất thì sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác.
Quá trình giải quyết vụ án Ông Trương Văn T không nhất trí với yêu cầu của bà K, ông cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Bà Trương Thị K1, bà Trương Thị P có quan điểm là yêu cầu của bà K là có căn cứ nên đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, ngoài ra không có yêu cầu gì.
Bà K xuất trình 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp số P061102 do huyện S cấp ngày 19/8/1999 và 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở số Q857911 do huyện S cấp ngày 12/10/2003 mang tên cụ Trương Văn L; 01 giấy ủy quyền thừa kế quyền sử dụng đất của cụ Trương Văn L cho bà K. Bà K đưa ra căn cứ: đất là do của bố chồng bà ông Trương Văn L đã ủy quyền thừa kế quyền sử dụng đất cho bà quản lý, sử dụng lâu dài, việc mua bán giữa ông C với ông T chưa được sự đồng ý của bà, bà K1 và bà P là trái quy định của pháp luật.
Ông Trương Văn T không xuất trình được giấy tờ gì có liên quan đến quyền được quản lý, sử dụng đất đã bán cho ông C. Ông T chỉ đưa ra căn cứ là đất của bố đẻ Trương Văn L chết để lại nên ông có quyền được quản lý và định đoạt bán cho ông C.
Ông Trương Văn C xuất trình 01 giấy chuyển nhượng đất giữa ông với ông T, ngoài ra không có xuất trình thêm giấy tờ gì. Ông C đưa ra căn cứ đất là do bố ông T chết để lại cho gia đình ông T quản lý, ông đã mua bán với ông T là ngay tình đúng quy định pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ, lời trình bày bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn bà K, bị đơn ông C, bà S, ông T, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà K1, bà P cung cấp và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bầy; căn cứ vào ý kiến của UBND xã L, người làm chứng, kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, ý kiến kiểm sát viên thì thấy: Việc ông Trương Văn T đã tự ý chuyển nhượng đất cho ông Trương Văn C khi chưa được sự đồng ý của bà K1, bà P trong gia đình được quyền đồng sở hữu tài sản cũng như chưa được sự đồng ý của bà Trần Thị K là người cụ L ủy quyền thừa kế cho quản lý, sử dụng lâu dài tài sản và giấy chuyển nhượng không có xác nhận, chứng thực của UBND xã L hoặc công chứng của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là trái với quy định của pháp luật về chủ thể và hình thức giao dịch.
Từ những phân tích nêu trên đối với phía bị đơn ông C, bà S, ông T đưa ra những căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho mình là không có căn cứ. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị K, tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 22 tháng 12 năm 2016 giữa ông Trương Văn T và ông Trương Văn C vô hiệu
Về yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu: Nguyên đơn bà K, bị đơn ông C, bà S, ông T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án này; nếu sau này có yêu cầu thì giải quyết bằng một vụ án khác.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà K được chấp nhận nên ông C, ông T phải chịu toàn bộ án phí dân sự phần không có giá ngạch về hợp đồng theo quy định của pháp luật và án phí giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên gia đình ông T, gia đình ông C thuộc hộ nghèo và là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn; do vậy ông T, ông C được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
[5] Về phí : Phí thẩm định hết 1.740.000đ; bà K đã nộp toàn bộ; do yêu cầu của bên nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên buộc bên bị đơn ông T, ông C phải nộp trả cho bà Kính số tiền thẩm định.
Vì các lẽ trên :
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, 35, 147, 157, 158 – Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Điều 122, 127, 134, 410, 689, 698 - Bộ luật dân sự 2005. Điều 167 Luật đất đai 2013. Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/NQ – UBTVQH 14 quy định về án phí, lệ phí Toà án .
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị K.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất ngày 22 tháng 12 năm 2016 giữa ông Trương Văn T với ông Trương Văn C vô hiệu.
[2] Về án phí: Ông Trương Văn T, ông Trương Văn C được miễn toàn bộ án phí DSST.
[3] Phí thẩm định: Ông Trương Văn T và ông Trương Văn C mỗi người phải nộp số tiền 870.000đ để trả cho bà Trần Thị K.
Án xử sơ thẩm công khai. Báo cho các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết ./.
Bản án 07/2017/DS-ST ngày 25/09/2017 về yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Số hiệu: | 07/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Động - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về