Từ ngày 15/11/2024, phạm nhân phải thực hiện tiêu chuẩn thi đua nào để được xếp loại chấp hành án phạt tù loại khá?
Từ ngày 15/11/2024, phạm nhân phải thực hiện tiêu chuẩn thi đua nào để được xếp loại chấp hành án phạt tù loại khá?
Căn cứ tại khoản 1 Điều 21 Nghị định 118/2024/NĐ-CP quy định về xếp loại chấp hành án phạt tù loại khá, phạm nhân phải thực hiện các tiểu chuẩn thi đua chấp hành án như sau:
(1) Đã thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 19 Nghị định 118/2024/NĐ-CP;
(2) Đã cơ bản thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định 118/2024/NĐ-CP. Riêng tiêu chuẩn về tích cực khắc phục hậu quả chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ nhưng thuộc một trong các trường hợp sau:
- Phạm nhân đã thi hành được ít nhất một phần hai tổng số tiền phải thi hành (bao gồm cả tiền phải thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí) có biên lai, hóa đơn, chứng từ để chứng minh hoặc văn bản xác nhận kết quả thi hành của cơ quan thi hành án dân sự, đồng thời có bản cam kết tiếp tục thi hành khi có điều kiện, được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận.
Trường hợp quyết định, bản án của Tòa án tuyên tạm giữ tiền hoặc phong tỏa tài khoản để đảm bảo thi hành án mà số tiền đó bằng hoặc nhiều hơn một phần hai số tiền phải thi hành hoặc có tài sản đang bị kê biên để bảo đảm thi hành án mà được cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc xác nhận tài sản đó có giá trị bằng hoặc nhiều hơn một phần hai số tiền phải thi hành, thì cũng được coi là đã thi hành được ít nhất một phần hai tổng số tiền phải thi hành trở lên. Trường hợp phát hiện phạm nhân có tiền, tài sản, có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành thì không được coi là tích cực khắc phục hậu quả.
- Phạm nhân chưa thi hành hoặc đã thi hành được dưới một phần hai tổng số tiền phải thi hành nhưng thuộc một trong các trường hợp: Có đơn trình bày hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú xác nhận là đúng; có tài liệu xác định gia đình phạm nhân thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo. Các trường hợp này phải có bản cam kết tiếp tục thi hành khi có điều kiện, được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận.
- Phạm nhân có hoàn cảnh gia đình khó khăn được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đúng, có nguyện vọng muốn được thực hiện nhiều lần tại cơ sở giam giữ phạm nhân hoặc tại cơ quan thi hành án dân sự thì phải viết cam kết thể hiện rõ số tiền nộp trong mỗi lần (số tiền nộp trong mỗi lần phải đảm bảo ít nhất bằng tổng số tiền còn phải thi hành chia cho số năm bị phạt tù của phạm nhân, nếu phải chấp hành hình phạt tù chung thân thì chia cho 30 năm;
Trường hợp cam kết thực hiện theo quý hoặc 06 tháng thì chia tương ứng như chia theo số năm), thời hạn nộp tiền phải vào tháng đầu tiên của kỳ đã cam kết nộp tiền, được Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân xác nhận. Trường hợp không thực hiện đúng cam kết thì không được coi là đã tích cực khắc phục hậu quả.
- Phạm nhân chưa thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí nhưng sau 01 tháng, kể từ ngày phạm nhân đến cơ sở giam giữ không liên lạc được với thân nhân thì phải có đơn trình bày hoàn cảnh (một tháng viết một lần vào thời điểm xếp loại tháng) và cam kết thực hiện khi có điều kiện, có xác nhận của Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân. Trường hợp sau 01 tháng mà phạm nhân đã liên lạc được với thân nhân thì phải thực hiện như trường hợp phạm nhân đã nêu ở trên của điểm b khoản 1 Điều 21 Nghị định 118/2024/NĐ-CP.
- Phạm nhân có quyết định của cơ quan thi hành án dân sự đang thụ lý vụ việc xác định chưa có điều kiện thi hành án thì phải viết bản cam kết thực hiện khi có điều kiện, có xác nhận Thủ trưởng cơ sở giam giữ phạm nhân.
- Các phạm nhân quy định ở điểm này nếu có tổng số tiền gửi lưu ký trong một tháng nhiều hơn ba lần định mức ăn một tháng mà Nhà nước cấp cho phạm nhân thì phải tự nguyện trích hết số tiền dư ra để thi hành. Nếu phạm nhân không thực hiện thì không được coi là tích cực khắc phục hậu quả (trừ phạm nhân bị ốm đau đang được điều trị, ốm đau thường xuyên; phạm nhân là thương binh, bệnh binh; phạm nhân là người khuyết tật hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần; phạm nhân nữ có thai hoặc đang nghỉ thai sản; phạm nhân có con nhỏ đang ở cùng trong trại giam; phạm nhân là người già yếu, nam từ 70 tuổi, nữ từ 65 tuổi trở lên).
- Bản cam kết, đơn trình bày hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, nêu tại điểm này 03 năm viết một lần, tính từ ngày cơ sở giam giữ phạm nhân nhận được đơn; tài liệu xác định gia đình phạm nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo được tính theo hằng năm, hết năm, nếu gia đình phạm nhân vẫn thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo thì phải tiếp tục gửi tài liệu xác định hộ nghèo, cận nghèo cho cơ sở giam giữ phạm nhân.
Trường hợp đơn trình bày hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, tài liệu xác định gia đình thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo hết hạn vì lý do khách quan, bất khả kháng, thân nhân phạm nhân không kịp thời bổ sung đơn hoặc tài liệu mới thì đơn hoặc tài liệu đó vẫn được gia hạn áp dụng trong 01 tháng.
- Phạm nhân có quốc tịch nước ngoài chưa thi hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc nghĩa vụ dân sự khác, nộp án phí thì phạm nhân viết thư vận động thân nhân khắc phục hậu quả. Cơ sở giam giữ phạm nhân gửi thư của phạm nhân cho Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, Bộ Công an (đối với trại giam do Bộ Công an quản lý) hoặc Cục Điều tra hình sự, Bộ Quốc phòng (đối với trại giam do Bộ Quốc phòng quản lý) để chuyển đến cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự nước mà phạm nhân mang quốc tịch hoặc cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam phối hợp giải quyết. Trong khi chờ giải quyết thì phạm nhân được coi là tích cực khắc phục hậu quả.
(3) Chưa thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 3 Điều 19 Nghị định 118/2024/NĐ-CP do thuộc một trong các trường hợp hạn chế khả năng tham gia lao động hoặc được miễn hoặc giảm định mức lao động, gồm: phạm nhân bị ốm đau đang được điều trị hoặc bị ốm đau thường xuyên; phạm nhân là thương binh, bệnh binh; phạm nhân là người khuyết tật hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần; phạm nhân nữ có thai hoặc đang nghỉ thai sản; phạm nhân có con nhỏ đang ở cùng trong trại giam; phạm nhân đã già yếu (nam từ đủ 70 tuổi, nữ từ đủ 65 tuổi trở lên).
Từ ngày 15/11/2024, phạm nhân phải thực hiện tiêu chuẩn thi đua nào để được xếp loại chấp hành án phạt tù loại khá? (Hình ảnh Internet)
Xem xét lại quyết định xếp loại chấp hành án phạt tù như thế nào?
Căn cứ tại Điều 26 Nghị định 118/2024/NĐ-CP quy định về xem xét lại quyết định xếp loại chấp hành án phạt tù như sau:
- Khi có căn cứ xác định việc xếp loại cho phạm nhân là không đúng với quy định của pháp luật hoặc phát hiện hành vi làm giả, làm sai lệch hồ sơ dẫn đến việc xếp loại cho phạm nhân không đúng với quy định của pháp luật thì cơ sở giam giữ phạm nhân phải xem xét, hủy toàn bộ kết quả của các kỳ xếp loại không đúng đó và xếp loại lại cho phạm nhân theo đúng quy định của Nghị định 118/2024/NĐ-CP.
Quy định về định kỳ nhận xét, đánh giá và xếp loại khá như thế nào?
Căn cứ tại khoản 2 Điều 21 Nghị định 118/2024/NĐ-CP quy định về về định kỳ nhận xét, đánh giá và xếp loại khá như sau:
Phạm nhân xếp loại khá khi không thuộc trường hợp xếp loại tốt quy định tại Điều 20 Nghị định 118/2024/NĐ-CP.
- Nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù tuần:
Phạm nhân có tất cả các ngày trong tuần được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù từ khá trở lên thì tuần đó được nhận xét, đánh giá khá.
- Xếp loại tháng
Phạm nhân xếp loại khá khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có ít nhất 21 ngày được nhận xét, đánh giá kết quả chấp hành án phạt tù từ khá trở lên, trong đó 07 ngày cuối tháng phải được nhận xét, đánh giá từ khá trở lên, các ngày còn lại không bị nhận xét, đánh giá kém; phạm nhân mới chấp hành án được 21 ngày trong 01 tháng thì tất cả các ngày phải được nhận xét, đánh giá từ khá trở lên.
- Xếp loại quý
Phạm nhân xếp loại khá khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có cả 03 tháng trong quý xếp loại từ khá trở lên; có 02 tháng xếp loại từ khá trở lên (trong đó tháng cuối quý xếp loại từ khá trở lên) tháng còn lại xếp loại từ trung bình trở lên (không có tuần nào trong tháng nhận xét, đánh giá kém); phạm nhân mới đủ thời gian xếp loại 02 tháng trong quý thì cả 02 tháng đó phải xếp loại từ khá trở lên (không có tuần nào trong 02 tháng bị nhận xét, đánh giá trung bình).
- Xếp loại 6 tháng
Phạm nhân xếp loại khá khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có 02 quý xếp loại từ khá trở lên; quý thứ nhất xếp loại trung bình (không có tuần nào bị nhận xét, đánh giá kém), quý thứ hai xếp loại khá trở lên nhưng trong 06 tháng đó phải có ít nhất 04 tháng xếp loại từ khá trở lên; phạm nhân mới đủ thời gian xếp loại 04 tháng thì cả 04 tháng phải xếp loại khá trở lên (không có tuần nào nhận xét, đánh giá trung bình).
- Xếp loại 01 năm
Phạm nhân xếp loại khá khi thuộc một trong các trường hợp sau: Có 06 tháng đầu năm và 06 tháng cuối năm đều xếp loại từ khá trở lên; có 06 tháng đầu năm xếp loại trung bình (không có tháng xếp loại kém), 06 tháng cuối năm xếp loại khá trở lên (quý III, quý IV đều xếp loại khá trở lên) và trong năm đó phải bảo đảm có ít nhất 08 tháng xếp loại từ khá trở lên.
- Đối với kỳ xếp loại quý, 06 tháng thì chỉ xếp loại khá đối với phạm nhân có kỳ xếp loại quý, 06 tháng liền kề trước đó xếp loại từ trung bình trở lên, trừ trường hợp lập công hoặc phạm nhân mới chấp hành đủ thời gian để xếp loại quý, 06 tháng.
Lưu ý: Nghị định 118/2024/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/11/2024.
LawNet
- Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của Law Net Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email:info@lawnet.vn
- Nội dung bài viết chỉ mang tính chất tham khảo;
- Bài viết có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau;
- Điều khoản được áp dụng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc;
- Mọi ý kiến thắc mắc về bản quyền của bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ mail banquyen@lawnet.vn;