Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 12/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 12/2021/DS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Trong ngày 03 tháng 02 và ngày 02 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 154/2020/TLST-DS ngày 21 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST-DS, ngày 04 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần K;

Trụ sở chính: 40-42-44 Phạm Hồng T, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Tuấn A, chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Tuấn A: Bà Lê Thụy Thủy T (theo Quyết định ủy quyền số 1418/QĐ-NHKL), chức vụ: Quyền giám đốc Ngân hàng TMCP K – Chi nhánh R.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thụy Thủy T: Ông Lâm Văn T (theo giấy ủy quyền số 180/UQ-CNRG), chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch G (có mặt);

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 1975 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp 2, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15/10/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn Ngân hàng TMCP K – Người đại diện theo ủy quyền ông Lâm Văn T trình bày:

Vào ngày 04/3/2011, Ngân hàng Thương mại cổ phần K (TMCP K) có cho bà Nguyễn Thị Mộng T vay số tiền 50.000.000đ theo Hợp đồng tín dụng số ST1257/HĐTD, ngày 04/3/2011 và Phụ lục hợp đồng tín dụng; mục đích vay là kinh doanh dịch vụ cầm đồ nhưng thực tế bà T không có kinh doanh và cũng không cung cấp giấy đăng phép kinh doanh cho Ngân hàng; thời hạn vay là 12 tháng; ngày giải ngân 08/3/2011; ngày đến hạn trả 08/3/2012; lãi suất trong hạn 1,8%/tháng (lãi suất cho vay được điều chỉnh 03 tháng một lần và được tính bằng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng lãnh lãi cuối kỳ của Ngân hàng TMCP K tại thời điểm thay đổi lãi suất cộng biên bộ 0,7%/năm); lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay; hình thức thanh toán: vốn vay được trả vào ngày đến hạn hợp đồng, lãi trả 06 tháng/lần.

Tài sản bà T thế chấp cho Ngân hàng để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng nêu trên được ký kết theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số ST1257/HĐTC, ngày 04/3/2011 gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BA 138380, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH00280, diện tích 67,5m2 (đất ở nông thôn) tờ bản đồ số 9, thửa số 34; tài sản gắn liền với đất là nhà ở diện tích 55m2, nhà cấp 4 được UBND huyện G cấp ngày 28/10/2010 do bà Nguyễn Thị Mộng T đứng tên, đất tọa lạc tại ấp 2, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình thực hiện hợp đồng, bà T không đóng lãi cũng như trả nợ gốc cho Ngân hàng đúng hạn. Ngân hàng TMCP K đã nhiều lần đôn đốc nhắc nhở cũng như tạo điều kiện cho bà T thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhưng bà vẫn không có thiện chí thanh toán nợ. Tính đến ngày 03/3/2021, bà T còn nợ Ngân hàng TMCP K số tiền 286.485.733đ, trong đó: nợ gốc 50.000.000đ, lãi trong hạn 12.843.333đ, lãi quá hạn 180.400.000đ và tiền phạt chậm trả lãi là 43.242.400đ.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP K yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T phải trả cho ngân hàng số tiền tính đến ngày 02/3/2021 là 243.243.333đ, trong đó: nợ gốc 50.000.000đ, lãi trong hạn 12.843.333đ, lãi quá hạn 180.400.000đ và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán hết nợ. Đồng thời, Ngân hàng TMCP K xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn về tiền phạt chậm trả lãi 43.242.400đ. Trường hợp, bà T không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mãi tài sản thế chấp nêu trên để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Mộng T không có mặt tại phiên tòa: Qua quá trình tiến hành tố tụng kể từ ngày thụ lý cho đến ngày xét xử vụ án bà T không có mặt tại địa phương, qua thẩm tra xác minh cũng không rõ bà đi đâu và làm gì. Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo qui định tại Điều 179, 180 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng bà T vẫn không có mặt nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của bà.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký, đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được thông báo, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định nhưng đều vắng mặt là không tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 463, 466, 468 và Điều 688 Bộ luật dân sự 2015: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP K buộc bà Nguyễn Thị Mộng T phải trả cho Ngân hàng số tiền 243.243.333đ, trong đó: nợ gốc 50.000.000đ, lãi trong hạn 12.843.333đ, lãi quá hạn 180.400.000đ và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán hết nợ. Áp dụng khoản 2, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP K về việc yêu cầu bị đơn phải trả số tiền phạt chậm trả lãi là 43.242.400đ. Nếu bà T không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật: Ngân hàng TMCP K khởi kiện bà Nguyễn Thị Mộng T đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà T phải thanh toán nợ theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết vì bà T đã vi phạm thời hạn trả nợ. Do đó, Tòa án xác định quan hệ pháp luật giải quyết là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo khoản 3 Điều 26 và khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Bị đơn không có yêu cầu phản tố.

Bà Nguyễn Thị Mộng T với tư cách là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án vẫn được xét xử theo quy định.

[2] Về nội dung: Vào ngày 04/3/2011, giữa Ngân hàng TMCP K với bà Nguyễn Thị Mộng T có ký kết Hợp đồng tín dụng số ST1257/HĐTD, ngày 04/3/2011 và Phụ lục hợp đồng tín dụng, theo đó: Ngân hàng TMCP K cho bà T vay số tiền gốc 50.000.000đ; mục đích vay là kinh doanh dịch vụ cầm đồ; thời hạn vay là 12 tháng; ngày giải ngân 08/3/2011; ngày đến hạn trả 08/3/2012; lãi suất trong hạn 1,8%/tháng (lãi suất cho vay được điều chỉnh 03 tháng một lần và được tính bằng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng lãnh lãi cuối kỳ của Ngân hàng TMCP K tại thời điểm thay đổi lãi suất cộng biên bộ 0,7%/năm); lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay; hình thức thanh toán: vốn vay được trả vào ngày đến hạn hợp đồng, lãi trả 06 tháng/lần. Xét, Hợp đồng tín dụng số ST1257/HĐTD, ngày 04/3/2011 và Phụ lục hợp đồng tín dụng giữa các bên được ký kết trên cơ sở tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, phù hợp quy định pháp luật nên phát sinh hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, từ ngày vay đến nay, bà T không đóng lãi và trả nợ gốc cho Ngân hàng. Do đó, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết.

[3] Xét yêu cầu của Ngân hàng TMCP K buộc bà T phải trả số nợ tính đến ngày 02/3/2021 là 243.243.333đ, trong đó: nợ gốc 50.000.000đ, lãi trong hạn 12.843.333đ, lãi quá hạn 180.400.000đ và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng từ ngày 03/3/2021 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ là có cơ sở. Xét thấy, cách tính tiền lãi của Ngân hàng TMCP K đúng với Hợp đồng tín dụng số ST1257/HĐTD, ngày 04/3/2011, phù hợp với Điều 91, Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng 2010 và Điều 8 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn về số tiền lãi phạt chậm trả lãi 43.242.400đ. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Đối với bị đơn bà T đã bỏ địa phương đi đâu không rõ địa chỉ, Tòa án đã thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng bà vẫn không có mặt tại Tòa án để cung cấp chứng cứ và lời khai, căn cứ điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung”. Do vậy, sau khi thẩm tra, xác minh cho thấy bà T vẫn còn hộ khẩu tại địa phương, Tòa án đã thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo Điều 180 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bà T cũng không gửi bất cứ văn bản nào thể hiện ý kiến và yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP K cho Tòa án nên HĐXX không thể xem xét nguyện vọng của bà.

[5] Xét Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số ST1257/HĐTC, ngày 04/3/2011 được công chứng số 1315, quyển số IV TP/CC-SCT/HĐGD tại Ủy ban nhân dân xã V vào ngày 08/3/2011 thể hiện: Bên thế chấp bà Nguyễn Thị Mộng T, bên nhận thế chấp là Ngân hàng TMCP K; tài sản bảo đảm gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BA 138380, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH00280, diện tích 67,5m2 (đất ở nông thôn) tờ bản đồ số 9, thửa số 34; tài sản gắn liền với đất là nhà ở diện tích 55m2, nhà cấp 4 được UBND huyện G cấp ngày 28/10/2010 do bà Nguyễn Thị Mộng T đứng tên, đất tọa lạc tại ấp 2, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Hội đồng xét xử xét thấy, thỏa thuận ký kết hợp đồng thế chấp của hai bên là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp theo quy định tại các Điều 500, 501, 502, 503 Bộ luật Dân sự 2015 và Điều 167 Luật Đất đai 2013 nên cần duy trì để bảo đảm thi hành án.

Qua thẩm tra, xác minh tại địa phương cho thấy toàn bộ tài sản thế chấp nêu trên hiện nay mẹ ruột bà T đang ở, không có thực hiện các giao dịch về đất với người thứ ba nên không có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Do vậy, trong trường hợp bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ cho Ngân hàng TMCP K thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Từ những phân tích trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Bà T phải chịu án phí dân sự có giá ngạch trong tổng số tiền phải trả là: 243.243.333đ x 5% = 12.162.166đ làm tròn số 12.162.000đ do bà có lỗi trong vụ kiện này.

Ngân hàng TMCP K được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 147, Điều 179, Điều 180, khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 244, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 470, Điều 500, Điều 501, Điều 502, Điều 503 và Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 167 Luật Đất đai 2013; khoản 2 Điều 91, Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng 2010; Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP K.

Buộc: Bà Nguyễn Thị Mộng T có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP K tổng số tiền 243.243.333đ (Hai trăm bốn mươi ba triệu hai trăm bốn mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba đồng), trong đó: nợ gốc 50.000.000đ, lãi trong hạn 12.843.333đ và lãi quá hạn 180.400.000đ.

Kể từ ngày Ngân hàng TMCP K có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà T chưa thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu lãi từ tính từ ngày 03/3/2021 theo mức lãi suất quá hạn thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng trên số nợ gốc tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Sau khi bà T thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP K có nghĩa vụ hoàn trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BA 138380, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH00280 đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số ST1257/HĐTC, ngày 04/3/2011 cho bà T.

Trong trường hợp bà T không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP K có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Tài sản thế chấp được xác định theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số ST1257/HĐTC, ngày 04/3/2011 gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất số BA 138380, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH00280, diện tích 67,5m2 (đất ở nông thôn) tờ bản đồ số 9, thửa số 34; tài sản gắn liền với đất là nhà ở diện tích 55m2, nhà cấp 4 được UBND huyện G cấp ngày 28/10/2010 do bà Nguyễn Thị Mộng T đứng tên, đất tọa lạc tại ấp 2, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng TMCP K về việc yêu cầu bị đơn phải trả số tiền phạt chậm trả lãi 43.242.400đ.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Mộng T phải nộp án phí dân sự có giá ngạch số tiền 12.162.000đ (mười hai triệu, một trăm sáu mươi hai nghìn đồng).

Ngân hàng TMCP K không phải nộp án phí và được nhận lại số tiền 6.200.000đ (sáu triệu, hai trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005300 ngày 21/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 02/3/2021). Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 9 Luật thi hành án dân sự và các Điều 7, 7a, 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 12/2021/DS-ST

Số hiệu:12/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;