Bản án về tội giết người số 352/2022/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 352/2022/HS-PT NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 127/2022/TLPT-HS ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Lương Nhật Q, Đàm Thị Ngọc Nh.

Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2022/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo có bị kháng cáo:

1/. Lương Nhật Q (tên gọi khác: Tr); sinh năm 1999 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKKTT và cư trú: Hẻm 13, đường Ng, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; con ông Lương Văn H và bà Nguyễn Thị L; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/8/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng. (có mặt)

2/. Đàm Thị Ngọc Nh (tên gọi khác: Ch); sinh năm 2001 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Tổ 2, thôn T, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Phật giáo; con ông Đàm Văn B, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị Kim Th, sinh năm 1975; chồng, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/8/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng. (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Q: Luật sư Hoàng Thị Minh H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng. (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Nh: Luật sư Phùng Xuân Th, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Lâm Đồng. (có mặt) Ngoài ra, trong vụ án còn có 07 bị cáo khác, đại diện hợp pháp của bị hại nhưng không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Toà không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 06/8/2020, Nguyễn Hoàng L (L Xê kô), Lô Quốc K, Lương Nhật Q, Đàm Thị Ngọc Nh, Mai Ngọc A, Mai Văn Tuấn A1 (Tuấn E), Lý Thiên T, Đỗ Quang L1, Trương Hữu Tuấn A2 và một số người bạn ngồi ăn, uống bia tại quán ốc 84, địa chỉ đường Th, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Cả nhóm ngồi ăn, uống đến khoảng gần 23 giờ thì giải tán đi về. Sau đó thì Nguyễn Hoàng L rủ Lô Quốc K, Tuấn A2, Ngọc A và Tuấn E tiếp tục quay lại quán để nhậu tiếp (Lương Nhật Q chở Đàm Thị Ngọc Nh đi về nhà của Q). Khi quay lại, nhóm của L gặp Nguyễn Hữu Tr, Đặng Đức Trí Th, Trần Lê Thảo U đang ngồi ăn, uống nên L, K, Tuấn A1, Ngọc A, Tuấn E vào ngồi cùng ăn uống, một lúc sau thì Tuấn E, K rời khỏi quán.

Cùng thời điểm này anh Đặng Hiệp Th1 cùng với Lê Văn N, Võ Xuân Tr1, Đặng Tấn X, Bùi Quốc D và Đỗ Xuân H cũng đến quán ốc 84 nhậu và ngồi bàn bên cạnh bàn của nhóm Nguyễn Hoàng L.

Trong quá trình ngồi nhậu, nhóm Đặng Hiệp Th1 xảy ra mâu thuẫn giữa Đỗ Xuân H và Lê Văn N, N cầm ly uống bia ném H làm văng qua bàn của nhóm Nguyễn Hoàng L, thấy mảnh vỡ văng qua bàn của mình, Nguyễn Hoàng L cầm chiếc đũa đi sang bàn anh Đặng Hiệp Th1 cự, cãi và đánh nhau với nhóm anh Th1, sau đó L bỏ chạy khỏi quán, lúc này có Mai Ngọc A cùng với Trương Hữu Tuấn A2 chạy theo L. Sau khi xảy ra xô xát, nhóm anh Th1 bỏ đi về. Thấy Nguyễn Hoàng L bị rách da ở bàn tay trái nên Ngọc A và Tuấn A1 nói đưa L lên Trung tâm y tế huyện Đ để khâu vết thương nhưng L không đồng ý mà nói Tuấn A1, Ngọc A chở L lên công viên, lên đến công viên L gọi điện thoại cho Q nói: “anh bị đánh ở trên này, mang dao lên đây”, sau đó L, Ngọc A và Tuấn A1 ngồi chờ.

Sau khi nghe điện thoại của L, Q đi xuống nhà bếp lấy 01 dao Thái Lan (cán nhựa màu vàng) đưa cho Nh, Nh cầm dao bỏ vào túi áo khoác đang mặc, sau đó Q lấy xe máy chở Nh đến công viên.

Sau khi rời khỏi quán ốc một lúc thì Lô Quốc K điều khiển xe chở Mai Văn Tuấn A1 (Tuấn E) quay lại quán ốc 84, thấy bàn ghế lộn xộn nên K hỏi mấy người bạn cùng ngồi ăn uống với Q trước đó thì có người trả lời: “L bị đánh đưa đi bệnh viện rồi ”. Nghe vậy, Lô Quốc K gọi điện thoại cho Lương Nhật Q thông báo “Anh Xê kô bị đánh lên bệnh viện rồi, mày cầm cây rựa lên đây” thì Q nói “Tao cầm dao Thái Lan rồi”. Sau đó K cùng với Tuấn E đi đến nhà của Đỗ Quang L1 ở đường Ng, thị trấn L, huyện Đ để gọi L1 và T. Lúc này Q chở Nh đi ngang qua nhà L1 thì thấy K, Tuấn E, L1, T đang đứng trước nhà L1 nên Q dừng xe lại chở thêm L1, còn K chở Tuấn E và T đến công viên.

Khi đi đến công viên, Q, Nh, L1, K, T, Mai Văn Tuấn A1 (Tuấn E) gặp L, Mai Ngọc A và Trương Hữu Tuấn A2; L hỏi K “có dao không”, K trả lời “không có” rồi K quay qua nói chuyện với Tuấn A1 về việc L bị đánh. Lúc này L quay qua hỏi “Q dao đâu, đưa dao đây”, Đàm Thị Ngọc Nh đang ngồi trên xe máy phía sau Q, hỏi Q “có đưa không” Q nói “”. Nh lấy dao đưa cho L, L cầm dao bỏ vào túi áo khoác đang mặc và nói với cả nhóm là đi tìm nhóm người đã đánh L để đánh trả thù, cả nhóm đồng ý và đi trên 03 xe máy gồm: Mai Ngọc A điều khiển xe chở Nguyễn Hoàng L và Lô Quốc K; Trương Hữu Tuấn A2 điều khiển xe chở Mai Văn Tuấn A1 (Tuấn E) và Lý Thiên T; Lương Nhật Q điều khiển xe chở Đàm Thị Ngọc Nh và Đỗ Quang L1. Xe của Q chở Nh và L1 đi từ công viên ra Quốc lộ 20 về phía chợ L, hai xe còn lại đi từ công viên xuống đường Ng1 giao nhau với đường H thì thấy Đặng Hiệp Th1, Đặng Tấn X và Dũng đang đi bộ trên đường; L hô to “Tụi nó đây rồi” và nói Ngọc A dừng xe lại. L nhảy xuống xe đồng thời lấy dao Thái Lan trong túi ra cầm trên tay đuổi theo anh Th1 theo đường Ng1 về hướng công viên; K, Tuấn E và T thấy vậy cũng đuổi theo anh Th1 (K cầm theo mũ bảo hiểm). Khi vừa thấy anh Th1 chạy vào đường Ng1 thì Nguyễn Hoàng L cầm dao trên tay phải đâm 01 nhát trúng vào vùng hông bên phải của anh Th1, bị đâm trúng, anh Th1 tiếp tục chạy, lúc này Mai Văn Tuấn A1 (Tuấn E) đuổi kịp thì dùng tay cầm áo anh Th1 kéo lại, nhưng anh Th1 vùng ra tiếp tục bỏ chạy, Lô Quốc K chạy đến cầm mũ bảo hiểm đánh vào người anh Th1, anh Th1 bỏ chạy về hướng công viên thì L, K, T, Tuấn E quay lại không đuổi nữa.

Cùng thời điểm nhóm của L đuổi theo anh Th1 thì Mai Ngọc A, Trương Hữu Tuấn A2 nhìn thấy anh Đặng Tấn X (người đi bộ cùng nhóm của anh Th1) chạy về hướng khu chợ gạo nên Tuấn A1 và Ngọc A đuổi theo để đánh anh X, Tuấn A1 dùng tay đẩy anh X ngã xuống đường và đánh anh X 02 đến 03 cái vào vùng lưng, Ngọc A thấy Tuấn A1 đánh anh X nên nói “không đánh nữa” rồi Ngọc A cùng Tuấn A1 quay về ngã ba thì gặp L, K, Tuấn E và T. Lúc này Q điều khiển xe chở Nh và L1 cũng vừa đi tới, L nói với Q “xong việc rồi, đi về đi” sau đó cả nhóm đi về quán ốc 84, L vào quán ốc nói chuyện với bạn một lúc rồi đi ra, L ném con dao dùng để đâm anh Th1 xuống nền gạch của quán ốc 84, thấy vậy T nhặt con dao lên đưa lại cho L nhưng L không cầm, thấy vậy Q đi đến và lấy con dao trên từ tay của T đưa cho Nh, Nh cất dao vào trong túi áo khoác rồi cả nhóm đi về. Q chở Nh về đến đầu đường V thì Nh nói cho Q biết con dao có dính máu, Q lấy dao từ tay Nh ném xuống mương nước đầu đường V.

Bị hại Đặng Hiệp Th1 được người dân phát hiện bị tử vong tại đường Ng1, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 209/2020/TT ngày 28/9/2020 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Lâm Đồng kết luận: Đặng Hiệp Th1 chết do nguyên nhân: Suy tuần hoàn – hô hấp do vết thương vào khoang ngực và bụng tổn thương nhu mô gan.

Theo Bản kết luận giám định pháp y số 1807/KLGĐ-PC09 ngày 29/9/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm đồng kết luận: Trên tử thi Đặng Hiệp Th1 có 04 vết thương.

- Dấu vết dập rách môi trên và dưới: Đây là vết thương bầm tụ máu tại môi trên và dưới kèm vết rách môi dưới có bờ mét nham nhở. Thương tích này được hình thành do ngoại lực tác động, do một vật tày gây ra.

- Dấu vết xây xát da vùng gối hai chân trái, phải: Thương tích có bề mặt nham nhở. Hình thành do tác động ngoại lực, do một vật tày bề mặt nhám gây ra.

- Dấu vết thương tích vùng mạn sườn phải: Vết thương kích thước 1,6 x 0,8cm, có bờ mép sắc gọn, chếch dọc, cạnh sắc hướng lên trên. Xuyên thấu da cơ tác động của ngoại lực tác động, do vật có một cạnh sắc, nhọn gây ra.

- Con dao gửi giám định có thể gây ra vết thương vùng mạn sườn phải của tử thi.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2022/HS-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên xử:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lương Nhật Q 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/8/2020.

Xử phạt bị cáo Đàm Thị Ngọc Nh 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/8/2020.

Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên phạt 07 bị cáo khác mức án từ 15 tháng tù đến 20 năm tù, tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/01/2022 các bị cáo Lương Nhật Q, Đàm Thị Ngọc Nh có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Các bị cáo Q, Nh thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm quy kết, các bị cáo chỉ mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo vì mức án như Toà sơ thẩm tuyên phạt là quá nặng, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhất thời phạm tội, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, không trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân.

Bị cáo Q xuất trình tình tiết giảm nhẹ mới; bị cáo tác động gia đình bồi thường tiếp cho gia đình bị hại số tiền 48.925.000 đồng, đây là khoản tiền bồi thường theo phần của bị cáo. Bị cáo đã bồi thường toàn bộ phần trách nhiệm dân sự của bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu:

Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nh, Q cấu thành tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự với vai trò giúp sức tích cực.

Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo: Khi Quyết định hình phạt Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị và xử phạt bị cáo Q 14 năm tù; xử phạt bị cáo Nh 12 năm tù là phù hợp, không nặng. Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nh không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, còn bị cáo Q tuy có tình tiết giảm nhẹ mới là bồi thường toàn bộ thiệt hại (theo phần của bị cáo) nhưng xét mức án 14 năm tù đối với bị cáo Q; 12 năm tù đối với bị cáo Nh là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo và y án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Q phát biểu:

Quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm và tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo tuổi đời còn trẻ, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội do bạn bè lôi kéo, không trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân, bị cáo tham gia với vai trò giúp sức. Tại cấp sơ thẩm bị cáo đã bồi thường được 10.000.000 đồng, hôm nay bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thêm 48.925.000 đồng, như vậy bị cáo đã bồi thường toàn bộ phần trách nhiệm của bị cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ khắc phục một phần hậu quả cho bị hại theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Q.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nh phát biểu:

Bị cáo Nh tuổi đời còn trẻ, quá trình điều tra, xét xử đã thực sự ăn năn hối cải, bị cáo có hoàn cảnh gia đình đặc biệt, cha mẹ bị cáo đã ly hôn từ lâu, bị cáo sống với bố, nên từ đó thiếu sự chăm sóc, dạy dỗ của người mẹ. Bị cáo phạm tội trong trường hợp bị lệ thuộc vì bị cáo là bạn gái của Q nên khi Q đưa dao cho bị cáo cầm thì bị cáo khó từ chối, đồng thời khi L kêu đưa dao thì Nh còn hỏi Q là có đưa không, khi Q nói đưa thì bị cáo mới đưa dao cho L nên vai trò của bị cáo hạn chế. Ngoài ra, tại cấp sơ thẩm xác định bị cáo phải bồi thường theo phần của bị cáo là 58.925.000 đồng, bị cáo đã bồi thường được 10.000.000 đồng, như vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ khắc phục một phần hậu quả theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Q, Nh Th với phần bào chữa của luật sư và không tranh luận gì thêm.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Các bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Đơn kháng cáo của các bị cáo Lương Nhật Q, Đàm Thị Ngọc Nh đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định nên kháng cáo của các bị cáo là hợp lệ, được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[3] Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm quy kết. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là Th với lời khai của các bị cáo khác và phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y và phù hợp với tất cả các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Trong lúc ăn uống tại quán ốc 84 thuộc đường Th, thị trấn L, huyện Đ, nhóm của bị cáo có xảy ra mâu thuẫn xô sát với nhóm của bị hại Đặng Hiệp Th1 nên các bị cáo đã chuẩn bị dao Thái lan và đi tìm nhóm bị hại đánh trả thù. Các bị cáo Q và Nh khi được L gọi điện thoại yêu cầu mang dao đến cho L thì các bị cáo này tích cực thực hiện và cùng với nhóm L đi tìm đánh nhóm anh Th1. Bị cáo L đã sử dụng dao Thái lan này đâm 04 nhát vào người bị hại Th1, hậu quả làm anh Th1 tử vong do suy tuần hoàn – hô hấp do vết thương vào khoang ngực và bụng tổn thương nhu mô gan.

[4] Hành vi nêu trên của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tính mạng của người bị hại. Chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ mà các bị cáo đã chuẩn bị hung khí là dao Thái lan đi tìm và tấn công bị hại một cách quyết liệt, tước đoạt mạng sống của người bị hại gây đau thương mất mát cho gia đình bị hại. Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo Q, Nh phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Q và Nh, thấy rằng: Đây là vụ án mang tính chất đồng phạm, các bị cáo tham gia với vai trò giúp sức, mang dao Thái lan đưa cho bị cáo L và bị cáo L sử dụng dao này đâm chết bị hại Th1. Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Q 14 năm tù, xử phạt bị cáo Nh 12 năm tù là trong khung hình phạt. Tuy nhiên, xét các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, quá trình điều tra, xét xử thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại cấp sơ thẩm xác định các bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại theo phần cụ thể mỗi bị cáo phải bồi thường 58.925.000 đồng, bị cáo Nh và Q đã bồi thường mỗi bị cáo 10.000.000 đồng, tại phiên toà hôm nay bị cáo Q đã tác động gia đình bồi thường tiếp số tiền còn lại là 48.925.000 đồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo là khắc phục một phần hậu quả theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, các bị cáo là dân tộc Tày nên nhận thức pháp luật hạn chế, trong đó bị cáo Nh có hoàn cảnh đặc biệt; cha mẹ bị cáo đã ly hôn từ lâu, bị cáo sống với bố từ đó thiếu vắng sự chăm sóc của người mẹ, đồng thời bị cáo Nh là người yêu của bị cáo Q, việc bị cáo cầm dao và đưa dao cho L là theo ý kiến của bị cáo Q nên vai trò của bị cáo Nh có phần hạn chế và lệ thuộc. Đánh giá tính chất hành vi, vai trò của các bị cáo như trên và các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

[6] Đối với khoản tiền 48.925.000 đồng gia đình bị cáo Q đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng theo biên lai số 0003096 ngày 09/5/2022 để bồi thường cho cho gia đình bị hại sẽ được khấu trừ trong quá trình thi hành án.

[7] Quan điểm của luật sư bào chữa cho các bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là có căn cứ, được chấp nhận.

[8] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nh, Q là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[9] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[10] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Đàm Thị Ngọc Nh, Lương Nhật Q.

Sửa quyết định về hình phạt của Bản án sơ thẩm số 04/2022/HS-ST ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đối với các bị cáo Đàm Thị Ngọc Nh, Lương Nhật Q.

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nh.

Xử phạt bị cáo Lương Nhật Q 12 (mười hai) năm tù về tội “giết người”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/8/2020.

Xử phạt bị cáo Đàm Thị Ngọc Nh 10 (mười) năm tù về tội “Giết người”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/8/2020.

Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Lương Nhật Q, Đàm Thị Ngọc Nh không phải chịu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

433
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 352/2022/HS-PT

Số hiệu:352/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;