TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 33/2022/HS-PT NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 803/2021/TLPT- HS ngày 22 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Hữu S, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2021/HS-ST ngày 16/8/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang.
* Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Hữu S (tên gọi khác: Không), sinh ngày 15 tháng 3 năm 1963 tại tỉnh Tuyên Quang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn 1, xã Trung M, huyện Yên S1, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu T và bà Nguyễn Thị D (đều đã chết); có vợ Trần Thị L và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa; (do bị cáo bị bệnh nên có bà Trần Thị L (vợ bị cáo) cùng tham gia phiên tòa).
* Bị hại: Anh Chu Ngọc T1, sinh năm 1982; địa chỉ: thôn 1, xã Trung M, huyện Yên S1, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Hữu V và chị Phan Thị H không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị Tòa không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang và Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 24/10/2020, Nguyễn Hữu S sang chơi tại nhà em trai cùng thôn là Nguyễn Hữu V thì gặp Chu Ngọc T1, Trần Quang H1, Nguyễn Văn Ch, Nguyễn Hồng Ph, Nguyễn Hữu V và Phan Thị H đều ở cùng thôn đang ở nhà V ăn cơm, uống rượu. S có ngồi xuống mâm cơm và nói chuyện với mọi người thì giữa S và T1 xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau về việc đắp tràn đánh cá tại đập Trung La. Sau đó, S lên bàn uống nước. Do bực tức với S nên anh T1 cầm 01 chiếc kéo để ở mâm cơm định đánh S thì anh Hà giật chiếc kéo lại ném vào góc nhà. Anh T1 tiếp tục đến bàn uống nước dùng tay phải cầm 01 con dao (loại dao gọt hoa quả) chuôi gỗ dài 28,4cm, bản và lưỡi dao dài 15,8cm, chỗ rộng nhất của bản và lưỡi dao 3,7cm để đánh nhau với S, anh V tay trái nắm vào phần lưỡi dao để can ngăn nhưng anh T1 giằng dao làm tay anh V bị đứt chảy máu. Sau đó anh T1 và anh Hà cùng nhau đưa anh V đi bệnh viện, do xe của anh Hà bị hỏng không đi được nên anh T1 quay lại sân nhà anh V lấy xe của mình để đưa anh V đi. Khi anh T1 đứng cạnh xe thì S đứng trên hè nhìn thấy, do bực tức nên S nhảy xuống sân đạp vào người anh T1 làm xe và người ngã, đổ xuống sân. Anh T1 vùng dậy đuổi theo; S chạy đến vị trí góc gian buồng phía ngoài sân nhà anh V thì thấy 01 chiếc xà beng dài 124cm (01 đầu bằng, cán tròn dài 106cm, đường kính 3,5cm, 01 đầu bẹt dài 18cm, nơi rộng nhất đầu hẹp là 4,2cm, lưỡi bẹt dày 0,2cm), dựng ở bờ tường, S cầm xà beng lên. Lúc này anh T1 đang đuổi theo phía sau, nhìn thấy S cầm xà beng thì chạy ra phía mép sân tìm hung khí để đánh nhau với S. S cầm xà beng bằng hai tay quay người lại tiến về phía anh T1 dơ lên vụt theo chiều chếch chéo từ trên xuống dưới, từ phải qua trái về phía anh T1, cùng lúc này anh T1 quay người về phía bên trái thì bị vụt trúng vào vùng thái dương đỉnh trái gây thương tích, anh T1 ngã ra vườn, sau đó được mọi người đưa đi cấp cứu.
Tại Bản kết luận pháp y về thương tích số 288/2020/TgT ngày 15/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang kết luận đối với thương tích của anh Chu Ngọc T1: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 24% (hai mươi bốn phần trăm).
Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Quá trình điều tra, bị hại anh Chu Ngọc T1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường 60.000.000đ, gồm các khoản tiền chi phí khám chữa bệnh, mất thu nhập; tiền công chăm sóc; bồi dưỡng sức khỏe... Bị cáo đã bồi thường 30.000.000đ. Anh T1 yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường thêm 30.000.000đ, bị cáo nhất trí.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2021/HS-ST ngày 16/8/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 57 Bộ luật Hình sự, xử phạt: bị cáo Nguyễn Hữu S 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/8/2021, bị cáo Nguyễn Hữu S kháng cáo với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm, các tình tiết trong vụ án để giảm hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Nguyễn Hữu S vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và thừa nhận khoảng 14 giờ ngày 24/10/2020, bị cáo và bị hại xảy ra mâu thuẫn trong quá trình ăn uống tại nhà em trai của bị cáo là Nguyễn Hữu V, bị cáo đã bỏ lên bàn uống nước nhưng bị hại vẫn tiếp tục gây sự, dùng dao tấn công bị cáo, khi, anh V tay trái nắm vào phần lưỡi dao để can ngăn nhưng bị hại giằng dao làm tay anh V bị đứt chảy máu, do bực tức trước hành vi của bị hại nên bị cáo đã dùng 01 chiếc xà beng dài 124cm, vụt trúng vào vùng thái dương đỉnh trái gây thương tích cho bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Giết người” là đúng người, đúng tội, không oan; bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo đã già yếu, mắc bệnh hiểm nghèo, phạm tội do bực tức vì bị người bị hại đánh, tấn công bị cáo trước; bị cáo không có ý thức tước đoạt tính mạng bị hại nên xét xử bị cáo về tội Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; mặc dù hoàn cảnh khó khăn nhưng bị cáo vẫn tích cực bồi thường một phần cho bị hại; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị hại anh Anh Chu Ngọc T1 khẳng định lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn đúng diễn biến sự việc đã xảy ra. Anh T1 thừa nhận vào buổi trưa ngày 24/10/2020, giữa anh với bị cáo có xảy ra mâu thuẫn và dùng dao, kéo tấn công bị cáo trước, làm bị cáo bức xúc nên mới dẫn đến hậu quả này, anh T1 thừa nhận cũng có một phần lỗi. Sau khi bị đâm thì bị cáo đã tích cực đến thăm hỏi bị hại và có bồi thường cho bị hại 30.000.000 đồng, đến nay bị hại đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội trình bày quan điểm giải quyết vụ án: lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại; người làm chứng; phù hợp biên bản khám nghiệm hiện trường; các kết luận giám định; phù hợp khách quan với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu S về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Về kháng cáo của bị cáo: khi quyết định mức hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã phân tích, đánh giá đúng diễn biến hành vi, động cơ mục đích, nguyên nhân xảy ra hành vi phạm tội; áp dụng đúng, đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức án 08 năm tù là phù hợp với tính chất, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có thêm tình tiết mới để xem xét, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử không có khiếu nại về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng, nên các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ là hợp pháp. Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu S trong hạn luật định, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm.
[2] Về nội dung: tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hữu S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại Cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của bị hại; người làm chứng; phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường; kết luận giám định; cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 24/10/2020, tại nhà anh Nguyễn Hữu V (em trai bị cáo) ở thôn 1, xã Trung M, huyện Yên S1, tỉnh Tuyên Quang, đã xảy ra mâu thuẫn giữa bị cáo với bị hại là anh Chu Ngọc T1 dẫn đến việc bị hại đã dùng kéo tấn công bị cáo nhưng được mọi người can ngăn giật được kéo, thì bị hại lại cầm 01 con dao (dài 28,4cm, bản và lưỡi dao dài 15,8cm) với mục đích tiếp tục đánh nhau với bị cáo nhưng được anh Nguyễn Hữu V can ngăn làm đứt tay trái anh V. Trong khi mọi người đưa V đi cấp cứu thì bị cáo S đã có hành vi đạp ngã bị hại, khi bị hại vùng dậy đuổi theo, bị cáo S đã chạy đến vị trí góc gian buồng phía ngoài sân nhà anh V, thấy 01 chiếc xà beng dài 124cm (01 đầu bằng, cán tròn dài 106cm, đường kính 3,5cm, 01 đầu bẹt dài 18cm, nơi rộng nhất đầu hẹp là 4,2cm, lưỡi bẹt dày 0,2cm), nặng 5,5kg, dựng ở bờ tường, S cầm xà beng bằng hai tay quay người lại tiến về phía anh T1 dơ lên vụt theo chiều chếch chéo từ trên xuống dưới, từ phải qua trái về phía anh T1, cùng lúc này anh T1 quay người về phía bên trái thì bị vụt trúng vào vùng thái dương đỉnh trái, anh T1 ngã ra vườn, sau đó được mọi người đưa đi cấp cứu. Hậu quả, bị hại bị vỡ xương vòm sọ, tụ máu máng cứng, chảy máu dưới mạng nhện, tỷ lệ tổn thương cơ thể 24%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Văn Hùng về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không có căn cứ để xét xử bị cáo về tội Cố ý gây thương tích trong trường hợp tinh thần bị kích động mạnh như quan điểm của bị cáo trình bày tại phiên tòa hôm nay.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu S, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, về nguyên nhân phạm tội: trong vụ án này, tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa thể hiện nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, có một phần do lỗi của bị hại đã dùng các hung khí nguy hiểm (dao, kéo) tấn công bị cáo trước, nên dẫn đến việc bị cáo bức xúc và dùng thanh xà beng vụt trúng vào vùng thái dương đỉnh trái của bị hại như nêu trên.
[4] Về hình phạt: Như đã phân tích nêu trên, hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện tính côn đồ, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt mà bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương, nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo bị truy tố, xét xử theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt là 15 năm tù, nên hành vi của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng là không đúng với diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; mặc dù hoàn cảnh rất khó khăn, bản thân bị cáo bị bệnh hiểm nghèo nhưng bị cáo vẫn tích cực bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có thời gian phục vụ trong quân đội, được tặng thưởng kỷ niệm chương và trong vụ án này bị hại cũng có một phần lỗi, nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với bị cáo là có căn cứ.
[5] Khi quyết định mức hình phạt, trên cơ sở phân tích diễn biến vụ án, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả của vụ án (bị hại không chết) và trên cơ sở xem xét, đánh giá, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án 08 (Tám) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm, không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu S mà cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm như quan điểm trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa hôm nay.
[6] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu S không được chấp nhận, nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu S; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2021/HS-ST ngày 16/8/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang về phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Hữu S.
Áp dụng khoản 2 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 57 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu S 08 (Tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.
[2]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hữu S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội giết người số 33/2022/HS-PT
Số hiệu: | 33/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về