TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 225A/2023/HS-PT NGÀY 19/04/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 19 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa trực tuyến xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 797/2022/TLPT-HS ngày 31 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Trần Hoàng Q do có kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 141/2022/HS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
- Bị cáo bị kháng cáo: Trần Hoàng Q sinh năm 1983 tại tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: ấp B, xã T, huyền D, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 3/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Văn K (đã chết) và bà Bùi Thị N; Có vợ và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/3/2022 (có mặt).
- Bị hại: Ông Ngô Văn H1 sinh năm 1987 (đã chết);
Người đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Văn H1 có kháng cáo:
1. Bà Ngô Thị H2, sinh năm 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: Xóm P, xã N, huyện N1, tỉnh Nghệ An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H2: Ông Ngô Huy H3, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: Xã K, huyện T, thành phố Hải Phòng.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp của bị hại:
- Luật sư Nguyễn Thị Thu L3 – Đoàn luật sư tỉnh Bình Dương (có mặt).
- Luật sư Nguyễn Thị Thu P2 – Đoàn luật sư tỉnh Bình Dương (có mặt).
2. Bà Vũ Thị S, sinh năm 1960 (mẹ ruột bị hại) (có mặt) Địa chỉ: Ấp R, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương.
(Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 18/3/2022, Ngô Văn H1 và ông Đặng Văn N1, sinh năm 1974 cùng uống rượu tại nhà ông N1, địa chỉ đường A, ấp R, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Do H1 có mâu thuẫn từ trước với Trần Hoàng Q nên H1 sử dụng điện thoại gọi kêu Q đến nhà ông N1 để nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn thì Q đồng ý. Khoảng 15 phút sau, Q điều khiển xe mô tô kiểu dáng Dream không biển số, chở 01 thùng đựng mủ cao su, bên trong thùng có dao mã tấu dài khoảng 66 cm màu đen chạy đến nhà ông N1. Khi đi đến, Q dựng xe trước cửa và đi vào trong nhà uống rượu với H1, ông N1. Sau khi uống rượu được 15 phút, H1 và Q nảy sinh mâu thuẫn xô đẩy nhau qua lại bằng tay không làm cho Q bị té xuống đất, chảy máu đầu. Q chạy ra xe lấy dao mã tấu dọa chém H1 thì được ông N1 can ngắn. Q cầm mã tấu và dắt xe ra đường A cách nhà ông N1 khoảng 08 mét đợi H1 đi ra về sẽ đánh. Q đứng chờ khoảng 10 phút thì thấy H1 đi ra trước nhà ông N1, cách Q khoảng 03 mét để lấy xe, Q liền cầm dao mã tấu chạy đến chém vào lưng H1 02 nhát. Bị Q chém, H1 cầm dao, loại dao bầu dài 30 cm lấy trong nhà của ông N1 xông đến đâm Q nhưng bị Q dùng tay gạt ra và dùng dao mã tấu đâm, chém nhiều nhát vào người H1 dẫn đến tử vong. Sau khi thấy H1 té gục dưới đất, Q điều khiển xe mô tô đến Công an xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương đầu thú, khai báo hành vi phạm tội của mình.
Tại Kết luận giám định pháp y tử thi số 228/GĐPY ngày 23/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định:
1/ Dấu hiệu chính qua giá định:
+ Vết đứt da cơ ở cánh tay phải, vai, lưng, hông, mông phải.
+ Vết thủng da cơ vùng ngực phải thấu vào khoang ngực.
+ Thủng, đứt cơ liên sườn số 2, 3 bên phải.
+ Thủng thùy trên mặt trong phổi phải.
+ Thủng bao tim (mặt bên phải).
+Thủng tiểu nhĩ phải, tĩnh mạch phổi phải.
+ Khoang màng phổi phải chứa 1500gr máu đông và 1000ml máu không đông.
+ Gan, lách, thận bạc màu, không dập vỡ.
2/ Cơ chế hình thành vết thương:
+ Nạn nhân bị 04 vết thương đứt da cơ ở cánh tay phải, vai, lưng, hông, mông phải gây đứt da cơ và các mạch máu nhỏ. Các vết thương trên được hình thành theo cơ chế chém, chặt.
+ Nạn nhân bị một vết thương thủng da cơ vùng ngực phải thấu vào trong khoang ngực phải gây thủng phổi phải, thủng tim vùng tiểu nhĩ phải và vùng tĩnh mạch phổi gây mất nhiều máu dẫn đến tử vong cho nạn nhân. Vết thương trên được hình thành theo cơ chế đâm.
+ Đặc điểm vật gây thương tích: các vết thương trên được tạo ra do vật cứng có cạnh sắc như (dao dạng mã tấu, dao dạng dao bầu...).
3/ Nguyên nhân chết: choáng mất máu cấp do vết thương vùng ngực phải gây thủng phổi, thủng tim.
Tại Kết luận giám định số 2418/KL-KTHS ngày 14/7/2022 của Phân viện Kỹ thuật hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
- Không phát hiện dấu vết máu hay người trên các mẫu vật gửi giám định gồm: cán và lưỡi dao bầu; cán dao mã tấu màu đen;
- Trên lưỡi của con dao mã tấu màu đen có dính máu người. Phân tích từ vết máu này được một kiểu gen nam giới hoàn chỉnh, trùng với kiểu gen của nạn nhân Ngô Văn H1.
Tại bản án hình sự sơ thẩm 141/2022/HS-ST ngày 20 tháng 9 năm 2022 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trần Hoàng Q phạm tội “Giết người”;
Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Trần Hoàng Q 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/3/2022.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/10/2022, người đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Văn H1 là bà Ngô Thị H2 có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp của bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trong phần tranh luận:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại trong hạn nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội theo nội dung bản án sơ thẩm. Chỉ vì mâu thuẫn đời thường, bị cáo đã trước nhà ông Đặng Văn N1, chuẩn bị sẵn mã tấu chờ bị hại ra để chém bị hại 05 nhát. Hành vi của bị cáo là có tính chất côn đồ, cố tình phạm tội đến cùng.
Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là chưa tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, áp dụng thêm điểm Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo mức án từ 18 – 20 năm tù.
Người bào chữa cho bị cáo phát biểu: Hành vi của bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm nhận định đánh giá, xem xét đầy đủ. Bị cáo đã bị xử phạt thuộc trường hợp có tính chất côn đồ. Ý thức phạm tội đến cùng là bản chất của có tính chất côn đồ. Do đó, người bào chữa cho bị cáo không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng thêm điểm e Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Ngoài ra, bị cáo cũng có ý chí khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, bản thân bị cáo đã ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên bản án sơ thẩm, để bị cáo sớm trở về thực hiện trách nhiệm dân sự với gia đình bị hại.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho đại diện hợp pháp của bị hại phát biểu: Hồ sơ vụ án thể hiện rõ trong quá trình diễn ra sự việc ông N1 có can ngăn bị cáo không tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện qua biên bản lấy lời khai của ông N1. Bị cáo đã có khoảng thời gian ở ngoài 10 phút chờ bị hại ra ngoài để chém. Nguyên nhân gây ra cái chết của bị hại là vết đâm sau này. Việc bị cáo chờ 10 phút để đâm bị hại thể hiện hành vi phạm tội đến cùng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm e Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng thiếu tình tiết tăng nặng này đối với bị cáo. Mặt khác, sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo không thăm nom, bồi thường cho gia đình người bị hại, nên không thể cho rằng bị cáo đã ăn năn hối cải. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại, tăng hình phạt đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên sơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bà Ngô Thị H2 (đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Văn H1) làm trong hạn luật định và hợp lệ.
[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 18/3/2022, tại nhà ông Đặng Văn N1, địa chỉ đường A, ấp R, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương, do có mâu thuẫn với nhau từ trước nên trong lúc uống rượu thì giữa bị cáo Trần Hoàng Q và bị hại Ngô Văn H1 phát sinh cự cãi và xô sát nhau làm cho Q té ngã, đầu bị chảy máu; Bị cáo Q có hành vi dùng mã tấu dọa chém Ngô Văn H1 nhưng được ông N1 can ngăn. Do bực tức bị H1 đánh, Q đã cầm dao mã tấu đứng trước nhà của ông N1 để chờ đánh H1; khi H1 đi ra lấy xe đi về thì bị cáo Q sử dụng dao mã tấu chém 02 nhát vào lưng; Bị Q chém, H1 cầm dao bầu xông đến đánh Q thì bị Q sử dụng dao mã tấu đâm, chém H1 nhiều nhát dẫn đến tử vong.
Với hành vi như trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2022/HS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương tuyên bố bị cáo Trần Hoàng Q phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người đúng tội.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại:
Chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ trong đời sống, bị cáo đã mã tấu là hung khí nguy hiểm chém nhiều nhát vào người bị hại, hậu quả làm cho bị hại tử vong. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an xã hội. Do đó, cần thiết phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm trong xã hội.
Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Trong đó, bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo mức án 16 năm tù.
Xét thấy, khi uống rượu tại nhà ông Đặng Văn N1 thì giữa bị cáo và bị hại đã xảy ra mâu thuẫn xô sát nhau, đã được ông N1 can ngăn. Sau đó, bị cáo cầm mã tấu đứng ở trước nhà ông N1 để chờ đánh bị hại, hậu quả là làm cho anh H1 tử vong do choáng mất máu cấp do vết thương vùng ngực phải gây thủng phổi, thủng tim. Hành vi cấu thành tội phạm là hành vi bị cáo dùng mã tấu đâm chém bị hại, xảy ra sau khi sự việc đánh nhau tại ông N1 đã chấm dứt. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” quy định tại điểm e Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi xem xét hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, việc bị cáo chỉ vì mâu thuẫn nhỏ đã được căn ngan, nhưng vẫn bực tức tiếp tục cầm mã tấu chờ bị hại để đánh chém thể hiện thái độ hung hãn, côn đồ, xem thường pháp luật và tính mạng của người khác. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là thuộc trường hợp phạm tội “có tính chất côn đồ” là đúng quy định pháp luật; Nhưng mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên xử là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội cho nên yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại về việc tăng hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ chấp nhận.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của đại diện hợp pháp của bị hại; Sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.
[5] Các nội dung và quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 343; điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Ngô Thị H2 (đại diện hợp pháp của bị hại Ngô Văn H1); Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 141/2022/HS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
1. Tuyên bố bị cáo Trần Hoàng Q phạm tội “Giết người”;
2. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Trần Hoàng Q 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/3/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Hoàng Q 45 ngày để đảm bảo thi hành án.
3. Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Bị cáo Trần Hoàng Q và bà Ngô Thị H2 (đại diện hợp pháp của người bị hại Ngô Văn H1) không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, 4. Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 225A/2023/HS-PT về tội giết người
Số hiệu: | 225A/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về