TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 14/2017/HSST NGÀY 15/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 11 năm 2017 tại Trụ sở Uỷ ban nhân dân xã T, Toà án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số:11/2017/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2017 đối với các bị cáo:
1. Bị cáo: Phàn Seo P
Sinh ngày 03 tháng 5 năm 1991.
Nơi ĐKNKTT: Thôn A, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Dân tộc: Dao; Quốc tịch: Việt nam; Tôn giáo: Không; Chức vụ, đảng phái, đoàn thể: Không.
Con ông: Phàn Seo S và bà: Phàn Thị Th.
Hiện bố mẹ bị cáo trú tại: Thôn A, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Vợ là Lý Thị Ấ - Sinh năm 1992 hiện trú tại: Thôn A, xã C, huyện B, tỉnh
Lào Cai. Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2013.
Tiền án, Tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.
2. Bị cáo: Tẩn Seo V.
Sinh ngày 11 tháng 7 năm 1992.
Nơi ĐKNKTT: Thôn A, xã C, huyện B , tỉnh Lào Cai.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Dao; Quốc tịch: Việt nam; Tôn giáo: Không; Chức vụ, đảng phái, đoàn thể: Không.
Con ông: Tẩn Seo D (Đã chết) và bà: Phàn Thị S1.
Mẹ bị cáo hiện trú tại: Thôn A, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Vợ là Lý Thị T - Sinh năm 1990 hiện trú tại: Thôn A, xã C, huyện B, tỉnh
Lào Cai. Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014.
Tiền án, Tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.
Ngƣời bào chữa cho bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V: Bà Lê Hoạ T1 -
Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt.
Ngƣời bị hại:
Anh Nguyễn Việt C - Sinh năm 1959. Giám đốc Công ty TNHH Việt
Cường. Địa chỉ: Số 005, Phố V, TT H, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Người đại diện theo uỷ quyền: Anh Nguyễn Văn H - Sinh năm 1964.
Địa chỉ: Tổ dân phố D, TT H, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt có lý do.
Ngƣời có quyền lợi liên quan: Chị Lý Thị T - Sinh năm 1990.
Nơi ĐKNKTT: Thôn A, xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt có lý do.
NHẬN THẤY
Các bị cáo Phàn Seo P và Tản Seo Vbị Viện kiểm sát nhân dân huyện BắcHà, tỉnh Lào Cai truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Tối ngày 05/7/2017, Tẩn Seo V đi xe mô tô biển kiểm soát 24R1-1652 đến nhà Phàn Seo P cùng thôn chơi. Sau đó, P rủ V đi trộm cắp dầu Diesel trên máy Lu nèn tại công trình đường thôn N để về thắp sáng, V đồng ý. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, V lái xe mô tô chở P cầm bao tải dứa đựng dụng cụ gồm:01 Cờ lê 8; 01 thanh sắt xoắn phi 10 hình chữ L có một đầu nhọn; 02 can nhựa loại 10 lít/1 can do P đã chuẩn bị trước đó để làm phương tiện thực hiện tộiphạm. Khi đến cách chỗ để máy Lu khoảng 100m thì cả 02 dừng xe đi bộ. Đến nơi, P dùng tay giật dây dẫn dầu của máy lu để dầu trong bình chảy ra cho V lấy can nhựa hứng đầy 02 can dầu. Tiếp đó, P dùng cờ lê vặn 2 ốc của nắp sắt sau đó luồn đầu nhọn của thanh sắt vào bẩy nắp lên tạo thành khe hở để luồn tay vào dùng sức giật mạnh khiến nắp bị bật bung ra. P dùng điện thoại bật đèn soi vào trong cốp thấy 2 bình Ắc quy điện được nối dây điện với nhau và với dây điện của máy Lu. Sau khi dùng tay giật đứt dây điện nối bình Ắc quy với máy Lu thìmỗi người bê 01 bình Ắc quy đến chỗ để xe máy, V chở 02 bình Ắc quy về trước, P xách 2 can dầu và bao tải đi bộ về sau. Khi về đến nhà, P và V xách 02 can dầu giấu trong bụi cỏ cạnh nhà P; 02 bình Ắc quy điện giấu cạnh tường gầngiường ngủ.
Ngày 8/7/2017, V tới chỗ giấu 02 can dầu, dùng xe mô tô của mình chở02 can dầu đến nhà Tẩn Tờ C1 trú cùng thôn bán được 200.000 đồng, trên đường về gặp P thì chia nhau mỗi người 100.000 đồng.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 22 ngày 8/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: Tổng tài sản bị trộm cắp là5.340.000 đồng(Năm triệu ba trăm bốn mươi nghìn).
Bản cáo trạng số: 11/KSĐT ngày 29 tháng 9 năm 2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V về tội: “Trộm cắp tài sản ” theo điều 138 khoản 1 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V phạm tội “Trộm cắp tài sản”:
- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều53; khoản 1,2 Điều 60 Bộ luật hình sự: Xử phạt Phàn Seo P từ 06 tháng 09 thángtù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo.
- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều53; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự: Xử phạt Tẩn Seo V từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo.
Miễn hình phạt bổ xung đối với các bị cáo.
Về dân sự không đề cập giải quyết:
Về vậ t ch ứng:
Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu xung quĩ nhà nước 200.000 đồng do các bị cáo phạm tội mà cóvà 01 điện thoại di động hãng UR PHONE của Tẩn Seo V
- Tịch thu tiêu huỷ 01 Cờ lê 8; 02 can nhựa loại 10 lít; 01 đoạn sắt xoắnphi 10;
- Trả 01 xe mô tô BKS 24R1-1625 cho bị cáo Tẩn Seo V.
Người bào chữa cho bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V sau khi phân tích tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; động cơ mục đích phạm tội đã đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; khoản 1,2 Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phàn Seo P 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 47; khoản 1,2 Điều60 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Tẩn Seo V 03 tháng tù nhưng cho hưởng ántreo.
Sau khi xem xét, kiểm tra những tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa, qua việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa.
XÉT THẤY
Tại phiên toà ngày hôm nay, các bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo khai rằng, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản nên P đã rủ V đi trộm cắp Dầu Diesel để về thắp sáng, sau khi lấy được Dầu thì phát hiện có bình Ắc qui nên tiếp tục trộm 02 bình Ắcqui của người bị hại. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, trị giá tài sản các bị cáo trộm cắp là 5.340.000 đồng (Năm triệu ba trăm bốn mươi nghìn). Như vậy có đủ cơ sở khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Hà truy tố các bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1Điều 138 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Các bị cáo là người có đủ năng lực và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản các bị cáo P và V đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp nhằm chiếm đoạt cho nhu cầu cá nhân. Các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn xã C nói riêng và huyện B nói chung. Vì vậy, cần áp dụng mức án tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra để cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Trong vụ án này, các bị cáo phạm mang tính đồng phạm giản đơn, không có sự phân công vai trò. Tuy nhiên, qua xem xét thấy rằng: bị cáo Phàn Seo P là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Tẩn Seo V phạm tội trộm cắp. Như vậy, P là người giữ vai trò thứ nhất, V giữ vai trò thứ hai.
Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội gây thiệt hại không lớn; tài sản trộm cắp đã được thu hồi được 1 phần và trả cho chủ sở hữu. Do vậy, các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo qui định tại điểm g; h; p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm theo qui định của Bộ luật hình sự nên giảm nhẹ cho các bị cáo1 phần hình phạt thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.
Đối với Phàn Seo P, mặc dù được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nơi ở rõ ràng, tuy nhiên bị cáo là người chủ mưu,khởi xướng ra việc trộm cắp, rủ rê Tẩn Seo V thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và là người thực hành tích cực, do vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với Tẩn Seo V, sau khi được Pao rủ đi trộm cắp tài sản, bị cáo đã đồng ý và dùng xe mô tô của gia đình vào việc trộm cắp, sau khi trộm cắp được tài sản bị cáo đã mang đi cất dấu và bán tài sản trộm cắp được lấy tiền chia nhau. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội với vai trò thứ hai; có nơi ở rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội vẫn đủ điều kiện để giáo dục bịcáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội. Cần áp dụng khoản 1,2 Điều 60 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo và giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 138 Bộ luật hình sự qui định hình phạt bổ xung bằng tiền, xét thấy các bị cáo là người lao động thuần nông ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, gia đình cũng như bản thân không có tài sản có giá trị nên không cần thiết phải áp dụng đối với các bị cáo. Do vậy, miễn áp dụng hình phạt bổ xung đối với Phàn Seo P và Tẩn Seo V.
Đối với Tẩn Tờ C1 là người đã mua 20 lít Dầu Diesel do các bị cáo trộm cắp, tuy nhiên khi mua C1 không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên không xử lý về hình sự.
- Về bồi thường thiệt hại và nghĩa vụ hoàn trả: Người bị hại đã nhận lại02 bình Ắc qui, đối với 20 lít Dầu Diesel hiện nay không thu hồi được và người bị hại cũng không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với qui định của pháp luật nên không đề cập giải quyết.
- Việc xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã thu giữ 02 bình Ắc qui;200.000 đồng do các bị cáo bán 20 lít Dầu Diesel; 01 Cờ lê 8; 02 can nhựa loại10 lít; 01 đoạn sắt xoắn phi 10; 01 điện thoại di động hãng UR PHONE; 01 xemô tô BKS 24R1-1625. Xét thấy không ảnh hưởng đến việc sử lý vụ án, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định sử lý vật chứng và trả 02 bình Ắc qui cho anh Nguyễn Văn H là đúng qui định tại khoản 2 Điều 41 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp nên không đề cập giải quyết.
Đối với số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) hiện đang được tạm giữ tại Tài khoản số 394901053629 của Công an huyện B, đây là số tiền do các bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu xung quĩ nhà nước.
Đối với 01 Cờ lê 8; 02 can nhựa loại 10 lít; 01 đoạn sắt xoắn phi 10, đâylà những công cụ dung vào việc trộm cắp tài sản. Xét thấy không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với 01 điện thoại di động hãng UR PHONE, điện thoại cũ đã qua sửdụng bên trong có 02 sim (1 sim Vinaphone và 01 sim Viettel) đây là điện thoại mà Tẩn Seo V dùng để liên lạc với Tẩn Tờ C1 để tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có. Xét thấy cần tịch thu xung quĩ nhà nước.
Đối với chiếc xe mô tô BKS 24R1-1625, đây là chiếc xe mô tô mà Tẩn Seo V dùng làm phương tiện đi trộm cắp và chở tài sản trộm cắp được mang đi tiêu thụ, do vậy cần phải tịch thu sung quĩ nhà nước. Tuy nhiên, quá trình điều tra đã xác định chiếc mô tô đó là tài sản chung của Tẩn Seo V và chị Lý Thị T. Việc Tẩn Seo V mang xe mô tô của gia đình dùng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nhưng chị T không biết, do vậy tịch thu sung quĩ nhà nước ½giá trị chiếc xe mô tô trong phần tài sản chung của Tẩn Seo V và trả ½ chiếc xe mô tô cho chị Lý Thị T là phù hợp với qui định của pháp luật.
Đối với 01 chiếc Bao tải dứa, quá trình điều tra đã truy tìm nhưng không thu hồi được nên không đề cập xử lý.
- Về nghĩa vụ chịu án phí: Bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V phạm tội: “Trộm cắp tài sản”;
- Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phàn Seo P 08 (tám) tháng tù. Thời gian tính từ ngày bắt thi hành án.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều53; khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Tẩn Seo V 06 (sáu)tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Tẩn Seo Vcho Uỷ ban nhân dân xã C, huyện B, tỉnh Lào Cai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thựchiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án Hình sự.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 41 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu sung quĩ nhà nước số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) của bị cáo Phàn Seo P và Tẩn Seo V do phạm tội mà có hiện đang được tạm giữ tại Tài khoản số 394901053629 của Công an huyện B tại Kho bạc nhà nước huyện B,tỉnh Lào Cai.
Tịch thu sung quĩ nhà nước 01 điện thoại di động hãng UR PHONE, điện thoại cũ đã qua sử dụng bên trong có 02 sim (1 sim Vinaphone và 01 sim Viettel) của Tẩn Seo V.
Tịch thu sung quĩ nhà nước ½ giá trị chiếc xe mô tô hãnh HUNDA JAPAloại xe WIN Biển kiểm soát 24R1-1652 của Tẩn Seo V.
Tịch thu tiêu huỷ 01 Cờ lê 8; 02 can nhựa loại 10 lít; 01 đoạn sắt xoắn phi10.
Trả lại cho chị Lý Thị Tòng ½ giá trị chiếc xe mô tô hãnh HUNDA JAPAloại xe WIN Biển kiểm soát 24R1-1652 của Tẩn Seo V.
(Số vật chứng trên theo Biên bản bàn giao giữa Cơ quan điều tra Côngan huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).
- Về nghĩa vụ chịu án phí: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 Qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Phàn Seo P và bị cáo Tẩn Seo V mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí hình sự sơ thẩm;
- Quyền kháng cáo bản án: Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại; người có quyền lợi liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
- Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 14/2017/HSST ngày 15/11/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 14/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Hà - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về