Quyết định 81/QĐ-UBND năm 2022 phê duyệt Đề án “Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn”
Quyết định 81/QĐ-UBND năm 2022 phê duyệt Đề án “Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn”
Số hiệu: | 81/QĐ-UBND | Loại văn bản: | Quyết định |
Nơi ban hành: | Tỉnh Bắc Kạn | Người ký: | Nguyễn Đăng Bình |
Ngày ban hành: | 19/01/2022 | Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
Số hiệu: | 81/QĐ-UBND |
Loại văn bản: | Quyết định |
Nơi ban hành: | Tỉnh Bắc Kạn |
Người ký: | Nguyễn Đăng Bình |
Ngày ban hành: | 19/01/2022 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 81/QĐ-UBND |
Bắc Kạn, ngày 19 tháng 01 năm 2022 |
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BẮC KẠN
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019;
Căn cứ Nghị quyết số 16-NQ/ĐH ngày 28 tháng 10 năm 2020 Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025;
Căn cứ Chương trình hành động số 06-CTr/TU ngày 24 tháng 12 năm 2020 của Tỉnh ủy Bắc Kạn về thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025;
Căn cứ Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Nội vụ tại Văn bản số 2475/SNV-TCBC&CCHC ngày 31 tháng 12 năm 2021.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn” (có Đề án kèm theo).
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Điều 3. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc các sở, ban, ngành; Thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố; Chủ tịch các tổ chức hội được giao biên chế chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
|
ĐỔI
MỚI PHONG CÁCH, LỀ LỐI LÀM VIỆC CỦA CÁC CẤP, CÁC NGÀNH VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC, VIÊN CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC KẠN
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 81/QĐ-UBND ngày 19 tháng 01 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn)
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Sự cần thiết xây dựng Đề án
Trong những năm qua, triển khai thực hiện các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ[1] về chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính các cấp, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Kạn đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo[2] triển khai thực hiện, trong đó tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện đổi mới tác phong, lề lối làm việc, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao chất lượng thực thi công vụ, phát huy dân chủ, gần dân, phục vụ Nhân dân và doanh nghiệp. Các cấp, các ngành cơ bản đã nghiêm túc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, tác phong, lề lối làm việc, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có chuyển biến tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, trong quá trình các cấp, các ngành triển khai thực hiện, công tác cải cách hành chính chưa thực sự được quan tâm thường xuyên; công tác quản lý, điều hành của chính quyền các cấp chưa thực sự đồng bộ, hiệu quả chưa cao; sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước chưa tốt, nhất là việc giải quyết các công việc đòi hỏi có sự phối hợp liên ngành. Tại một số cơ quan, đơn vị, địa phương vẫn còn tình trạng chậm trễ trong công tác tham mưu, thực hiện nhiệm vụ, chất lượng, hiệu quả công việc chưa cao; việc chấp hành sự chỉ đạo, điều hành của cấp có thẩm quyền chưa nghiêm; kỷ luật, kỷ cương hành chính trong một số bộ phận cơ quan, đơn vị chưa được thực hiện triệt để, thường xuyên; tác phong, lề lối làm việc, tinh thần, thái độ phục vụ |Nhân dân của một số ít cán bộ, công chức, viên chức chưa thực sự nghiêm túc; công tác kiểm tra, đôn đốc chưa được quan tâm đúng mức, việc phát hiện và xử lý vi phạm chưa cương quyết, nghiêm minh, chưa đủ sức răn đe; vai trò người đứng đầu các cấp, các ngành chưa được phát huy, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức chưa thật sự chặt chẽ, trách nhiệm. Một số cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa quyết liệt trong công tác uốn nắn, sửa đổi lề lối, phong cách làm việc của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:“Cán bộ là cái gốc của mọi việc”; “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Hầu hết những sai lầm lớn, nhỏ đều bắt nguồn từ công tác cán bộ, từ khâu đánh giá, bố trí cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ. Chỉ cần một cán bộ, công chức, viên chức tham nhũng, gây phiền hà, thiếu tôn trọng Nhân dân thì đều có thể ảnh hưởng không tốt đến uy tín của cơ quan, tổ chức, của Đảng và Nhà nước, nhất là trong điều kiện phát triển nhanh của mạng xã hội như hiện nay. Do đó, cần phải cẩn trọng trong việc tạo ra, duy trì lề lối, phong cách làm việc đúng đắn, góp phần xây dựng tổ chức, cơ quan, đơn vị vững mạnh. Trên thực tế, ở đâu cán bộ, công chức, viên chức dân chủ, thân ái với đồng nghiệp; tôn trọng, gần gũi, trách nhiệm với Nhân dân thì ở đó cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ và quần chúng Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước ở địa phương.
Từ thực tiễn nêu trên, UBND tỉnh xây dựng Đề án “Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn” và đưa vào áp dụng trong các cơ quan, đơn vị, địa phương thuộc thẩm quyền quản lý, nhằm xây dựng hình ảnh người cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu, sáng tạo, trách nhiệm trong thực thi công vụ, phục vụ Nhân dân.
Tại Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 (Nghị quyết số 16-NQ/ĐH ngày 28/01/2020) đã quyết nghị các mục tiêu và chỉ tiêu quan trọng trong 05 năm 2020 - 2025, trong đó có mục tiêu “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, chỉ số cải cách hành chính”. Theo đó, ngày 24/12/2020, Tỉnh ủy Bắc Kạn đã ban hành Chương trình hành động số 06-CTr/TU thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, trong đó giao Ban Cán sự đảng UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng Đề án “Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn”. Mục tiêu đổi mới phong cách và lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính của các cấp, các ngành thuộc tỉnh phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 về ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030, cụ thể: “Cải cách hành chính phải gắn với nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy và hành động sáng tạo; đổi mới lề lối làm việc, phương thức quản trị hiện đại, trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước;...”.
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Chương trình hành động của Tỉnh ủy và nội dung chỉ đạo của Ban Cán sự đảng UBND tỉnh, việc xây dựng Đề án “Đổi mới phong cách và lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức viên chức trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn” và đưa vào triển khai áp dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả cải cách hành chính của các cấp, các ngành thuộc thẩm quyền quản lý của UBND tỉnh là phù hợp, đồng thời góp phần thực hiện thành công mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra.
3. Phạm vi, đối tượng áp dụng của Đề án
Phạm vi của Đề án: Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
Đối tượng áp dụng, bao gồm: Cán bộ, công chức, viên chức và tập thể lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương thuộc thẩm quyền quản lý của Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh.
1. Thực trạng lề lối làm việc của các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh
Hiện nay, các cơ quan chuyên môn và tương đương thuộc UBND tỉnh gồm có 20 cơ quan, 08 đơn vị hành chính cấp huyện và 108 đơn vị hành chính cấp xã; có 388 đơn vị sự nghiệp công lập. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và các quy định hiện hành, UBND tỉnh đã thực hiện phân cấp cho các cấp, các ngành thực hiện quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức và phân cấp quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ theo ngành, lĩnh vực giữa cấp tỉnh với các sở, ngành và chính quyền địa phương để thực hiện thống nhất, có hiệu quả nhiệm vụ được giao và nâng cao tính chủ động trong quản lý, sử dụng các nguồn lực của ngành, địa phương.
Trong thời gian qua, với sự chỉ đạo của các cấp, các ngành và sự đồng lòng của nhân dân trong tỉnh, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Kạn tiếp tục phát triển ổn định, an sinh xã hội được đảm bảo, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Kết quả đạt được trên các lĩnh vực như sau: Kinh tế tiếp tục tăng trưởng; sản xuất nông, lâm nghiệp có chuyển biến theo hướng tích cực; công nghiệp - xây dựng tăng trưởng khá, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư; hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch phát triển ổn định; công tác lập quy hoạch, quản lý và thực hiện quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, thu hút các nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có chuyển biến tiến bộ; sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và hợp tác xã có bước phát triển; công tác xúc tiến đầu tư đạt hiệu quả; công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường có chuyển biến tích cực; khoa học công nghệ có nhiều đổi mới, công tác ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đạt kết quả khá; công tác giảm nghèo, thực hiện chính sách an sinh xã hội, lao động, việc làm, phòng, chống tệ nạn xã hội cơ bản đạt mục tiêu đề ra; giáo dục và đào tạo có tiến bộ; công tác y tế - chăm sóc sức khỏe Nhân dân được bảo đảm, chất lượng khám chữa bệnh từng bước được nâng lên; công tác văn hóa, thể dục thể thao, gia đình được quan tâm, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” được triển khai rộng khắp; công tác thông tin và truyền thông đạt kết quả khá; công tác dân tộc, tôn giáo được thực hiện có hiệu quả; tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo cơ bản ổn định và phát triển. Công tác quốc phòng, quân sự địa phương có chuyển biến, tiến bộ rõ rệt; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được củng cố, giữ vững; công tác nội chính, cải cách tư pháp, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí được tăng cường.
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ thì phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành (tập thể lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu) là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả điều hành tổ chức thực hiện nhiệm vụ, đồng thời có tính chất quyết định đến việc xây dựng hình ảnh, uy tín của tổ chức, tập thể nói riêng, uy tín của Đảng và Nhà nước nói chung trước nhân dân và toàn xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nhiệm vụ, các cấp, các ngành còn bộc lộ một số hạn chế trong phong cách, lề lối làm việc, cụ thể như:
- Trong công tác chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ, đôi khi còn qua loa, đại khái hoặc theo nội dung văn bản cấp trên, chưa cụ thể hóa để phù hợp với thực tế địa phương; còn thiếu tính hệ thống, sắp đặt thành kế hoạch khoa học, chưa coi trọng việc kiểm tra, kiểm soát để bảo đảm kế hoạch được thực hiện thông suốt, đúng tiến độ, đạt hiệu quả công tác theo mục tiêu đề ra. Do việc chỉ đạo chưa có tính hệ thống nên không chọn được các vấn đề trọng điểm để tập trung chỉ đạo quyết liệt tạo đột phá, đạt kết quả tối ưu. Mặt khác, khi gặp các ý kiến mâu thuẫn, trái chiều, tập thể lãnh đạo thường ít khi truy đến tận cùng căn nguyên của vấn đề, vẫn còn tình trạng dung hòa các ý kiến để có sự “đồng thuận” về mặt hình thức nhưng không giải quyết được bản chất của vấn đề.
- Việc phân công nhiệm vụ đôi khi chưa cụ thể, rõ ràng nên chưa gắn được trách nhiệm cá nhân trong xử lý sai phạm. Mặt khác, chưa chú trọng trong việc phân công nhiệm vụ trên cơ sở năng lực chuyên môn, sở trường công tác của từng cá nhân nên chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo cũng như nêu cao tinh thần trách nhiệm của từng cá nhân trong thực thi nhiệm vụ. Chưa chỉ đạo quyết liệt về nội dung thực hiện trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là người đứng đầu các bộ phận, tổ chức, cơ quan, đơn vị trong việc thực thi công vụ. Theo đó, việc gắn trách nhiệm cá nhân đối với những sai sót, vi phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ chưa cụ thể, rõ ràng.
- Một số tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa chú trọng việc tạo phong cách làm việc đối thoại, yêu cầu cán bộ, công chức, viên chức phản biện, giải trình các nội dung tham mưu nhằm định hướng đúng, đưa ra được giải pháp tối ưu trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh.
- Việc chỉ đạo thực hiện các biện pháp nhằm thay đổi tư duy, thái độ, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp tiếp nhận, thụ lý, giải quyết thủ tục hành chính trên tinh thần tận tụy, phục vụ Nhân dân, “lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc” chưa được thực hiện thường xuyên, chưa đưa vào tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc được giao.
- Công tác định hướng chiến lược của một số ngành, lĩnh vực, địa phương chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Do đó, trong thời gian qua kết quả thực hiện nhiệm vụ các cấp, các ngành chưa cao, còn một số tồn tại, hạn chế[3] nhất định và nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do công tác dự báo, định lượng, xác định hệ thống chỉ tiêu chưa thật sự hợp lý; công tác lãnh đạo, chỉ đạo và việc kiểm tra, đôn đốc của các cấp, các ngành đôi lúc chưa thường xuyên, quyết liệt, triệt để; trách nhiệm của người đứng đầu chưa thật sự được đề cao; bộ máy chính quyền cơ sở một số nơi còn bộc lộ nhiều hạn chế, công tác quản lý, điều hành còn yếu. Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý trên một số lĩnh vực còn bất cập, chất lượng không đồng đều, thiếu năng động, sáng tạo, đổi mới, thiếu chuyên nghiệp. Công tác quy hoạch chưa được quan tâm chỉ đạo sát sao nên việc xác định bước đi và lộ trình hoạt động cho từng năm, từng giai đoạn thiếu đồng bộ, chưa tạo ra môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh. Các cơ chế chính sách triển khai ở một số lĩnh vực còn thiếu hệ thống giám sát đánh giá kết quả thực hiện; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn chưa chặt chẽ.
Trên cơ sở các tồn tại, hạn chế theo ngành, lĩnh vực nêu trên, kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cấp, các ngành chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các cơ quan, đơn vị, địa phương hằng năm thực hiện đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức phần lớn đạt mức hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức xếp loại chất lượng không hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ còn rất thấp[4]. Như vậy, kết quả đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức hằng năm chưa tương ứng với chất lượng, kết quả thực hiện nhiệm vụ thực tế của cán bộ, công chức, viên chức. Nguyên nhân, do một số cơ quan, đơn vị, địa phương còn nặng tính chủ quan, cảm tính, chưa bám sát vào các tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng theo quy định; chưa đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ theo tiến trình, tiến độ và chất lượng công việc; một số lãnh đạo, người đứng đầu đơn vị chưa thẳng thắn đánh giá cán bộ, công chức, viên chức dưới quyền yếu kém do cả nể, sợ bị mất lòng, đánh giá chưa thực chất nên kết quả xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức chưa phản ánh được thực tế năng lực, trách nhiệm, thái độ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý.
Từ thực trạng đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức hằng năm chưa thực chất nêu trên dẫn đến công tác tinh giản biên chế thực chất của tỉnh chưa đạt mục tiêu theo quy định[5]. Do đó, việc đưa ra khỏi hệ thống chính trị những cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng về trình độ, năng lực, sức khỏe… theo yêu cầu của vị trí việc làm và thực hiện cơ cấu lại đội ngũ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh chưa đạt yêu cầu theo quy định.
2. Thực trạng phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh
Trong những năm qua, tỉnh Bắc Kạn đã tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ tỉnh đến cơ sở. Trình độ, kiến thức và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức dần được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng[6]. Với 95% công chức cấp huyện, cấp tỉnh; 62,4% viên chức có trình độ từ đại học trở lên, cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đều có khả năng vận dụng kiến thức vào hoạt động thực tiễn công việc được giao, từ đó hiệu quả công tác được nâng lên rõ rệt. Nhìn chung, cán bộ, công chức, viên chức cơ bản thực hiện tốt kỷ luật lao động, có tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, có ý thức chủ động nghiên cứu, học hỏi nâng cao năng lực chuyên môn, qua đó nâng cao hiệu quả công tác.
Tuy nhiên, qua kết quả thanh tra, kiểm tra và khảo sát cho thấy chất lượng, hiệu quả giải quyết công việc của một số cán bộ, công chức, viên chức chưa cao, biểu hiện cụ thể ở các phương diện sau:
- Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa ý thức rõ về chức trách, nhiệm vụ được giao. Tại một số cơ quan, đơn vị, địa phương vẫn còn tình trạng cán bộ, công chức, viên chức chưa chấp hành tốt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như nội quy, quy định của cơ quan, đơn vị. Một số cán bộ, công chức, viên chức thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ; chưa thực hiện đúng quy trình, quy định về chuyên môn, nghiệp vụ; thiếu kiểm tra, giám sát và giải trình làm ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng công tác và tác phong, uy tín, hình ảnh của người cán bộ, công chức, viên chức trước Nhân dân.
- Tinh thần phục vụ, đạo đức công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao, chưa làm hết trách nhiệm; kỷ cương, kỷ luật hành chính ở một số đơn vị còn thiếu các biện pháp hữu hiệu để chấn chỉnh, khắc phục như: Đất đai, cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề, đầu tư, môi trường, xây dựng, thanh tra chuyên ngành và một số đơn vị cung ứng dịch vụ hành chính công phục vụ yêu cầu của người dân ở xã, phường, thị trấn…
- Thực tế chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước trong cơ chế mới. Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng được tăng cường, số lượng cán bộ, công chức, viên chức qua các lớp, các khóa đào tạo, bồi dưỡng khá lớn nhưng chất lượng công tác quản lý nhà nước, việc vận dụng kỹ năng nghiệp vụ hành chính vào giải quyết công việc thực tế chưa cao.
- Năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới hiện nay. Một số cán bộ, công chức, viên chức chưa có kiến thức, kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, nghiên cứu khoa học; chưa sử dụng, ứng dụng kỹ thuật mới vào lĩnh vực công việc đang đảm nhiệm một cách thuần thục.
- Nhận thức về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa thực sự đầy đủ, sâu sắc. Một số cán bộ, công chức thực hiện các công việc theo khuôn mẫu, quy định có sẵn, chưa có tư duy đột phá, cải tiến để thay đổi lề lối, phương thức làm việc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
- Tâm lý ngại học, ngại đổi mới còn ăn sâu trong suy nghĩ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức dẫn đến không đủ khả năng tiếp thu những cái mới, những tiến bộ khoa học để ứng dụng vào công việc. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có biểu hiện trung bình chủ nghĩa, làm việc cầm chừng, chưa thường xuyên, tích cực học tập, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ...
- Chất lượng tham mưu giải quyết công việc chưa cao, một phần do vẫn còn có cán bộ, công chức, viên chức chưa tự giác nghiên cứu tài liệu dẫn đến không sâu về chuyên môn nghiệp vụ; chưa có kế hoạch, giải pháp công tác cụ thể nên thiếu chủ động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Với những hạn chế như trên, trong thời gian tới, cần thiết phải có những giải pháp cụ thể nhằm đổi mới phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh.
III. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
- Tập trung chỉ đạo đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo hướng dân chủ, khoa học, sâu sát, kịp thời, đúng pháp luật. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng về nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền địa phương. Xây dựng bộ máy chính quyền địa phương trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại[7].
- Lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm để phục vụ. Sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp là thước đo chất lượng và hiệu quả phục vụ của cán bộ, công chức, viên chức và cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết thủ tục hành chính. Thực hiện triệt để các nhóm giải pháp chính: Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng chế độ công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả, hướng tới mục đích chung là phục vụ tốt nhu cầu chính đáng của người dân và doanh nghiệp.
- Tăng cường thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương trong thực hiện đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành.
Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cấp, các ngành và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn nhằm hình thành phong cách ứng xử, phương thức làm việc chuẩn mực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; bảo đảm tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nâng cao trách nhiệm giải trình trong hoạt động thực thi công vụ nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.
3.1. Đối với các cấp, các ngành
Để thực hiện đổi mới phong cách và lề lối làm việc của các cấp, các ngành nhằm nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện nay, UBND tỉnh yêu cầu tập thể lãnh đạo các sở, ban, ngành, đơn vị sự nghiệp công lập, UBND cấp huyện, UBND cấp xã tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
a) Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc
- Triển khai thực hiện nhằm thay đổi căn bản tư duy, thái độ, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của tập thể lãnh đạo, người đứng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đơn vị; đồng thời thay đổi căn bản tư duy, thái độ, đổi mới phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức theo hướng năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, thực hiện nhiệm vụ vì mục tiêu chung của tập thể và phục vụ lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Đặc biệt, cần quán triệt sâu sát làm thay đổi tư duy, thái độ, đổi mới lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp tiếp nhận, thụ lý, giải quyết thủ tục hành chính, thực hiện nhiệm vụ trên tinh thần “lấy sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc”.
- Nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu, tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng và đồng thuận trong xã hội về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì Nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
- Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nhằm nâng cao về ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm; phương pháp, lề lối, tác phong làm việc; tinh thần, thái độ, trách nhiệm trong công việc; kỹ năng, nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên tiếp xúc với nhân dân và đội ngũ trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính phải gần gũi với Nhân dân, có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn, ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc, không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho Nhân dân khi thi hành công vụ; có khả năng nhận định các vấn đề phát sinh, đủ năng lực, trình độ chuyên môn để tham mưu giải quyết tốt các thủ tục hành chính, tạo được niềm tin cho Nhân dân và doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính.
- Nâng cao nhận thức của lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức trong việc xây dựng, phát triển chính quyền điện tử, hướng tới chính quyền số nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động, chất lượng phục vụ của các cơ quan hành chính các cấp.
b) Đổi mới phong cách, lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai, định hướng thực hiện nhiệm vụ
- Tập thể lãnh đạo các cấp, các ngành thực hiện tốt công tác định hướng chiến lược của ngành, lĩnh vực, địa phương, xác định các nhiệm vụ trọng tâm, bám sát chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ được thống nhất, bảo đảm về tiến độ, đạt hiệu quả trong công việc.
- Tập trung thực hiện đồng bộ các biện pháp đẩy mạnh cải cách hành chính tỉnh Bắc Kạn theo giai đoạn và hằng năm theo các Nghị quyết, chương trình của Chính phủ và của tỉnh. Tiếp tục rà soát chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện tinh gọn đầu mối, khắc phục sự chồng chéo, dàn trải và trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; rà soát, chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện sang công ty cổ phần theo quy định. Nâng cao chất lượng quản lý, sử dụng công chức, viên chức; hoàn thiện đề án vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng và bổ nhiệm cán bộ, công chức, viên chức.
- Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực, sở trường công tác của từng cá nhân; thực hiện rà soát, bố trí, sắp xếp, điều chuyển nhân sự phù hợp với từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức. Yêu cầu từng cá nhân căn cứ vị trí việc làm, nhiệm vụ được giao, xây dựng kế hoạch công tác cụ thể cho tuần, tháng, quý, năm để theo dõi, giám sát thực hiện.
- Xây dựng kế hoạch, thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ được giao; đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ theo tháng, quý, năm để kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoặc khích lệ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt nhiệm vụ, đồng thời làm cơ sở để đánh giá, xếp loại hoàn thành nhiệm vụ cuối năm. Quan tâm, tạo dựng môi trường làm việc tốt, có chế độ động viên, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức tâm huyết, tận tình, có trách nhiệm với công việc. Quán triệt việc nâng cao trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, đặc biệt là người đứng đầu tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý.
- Xây dựng chiến lược phát triển và thu hút, trọng dụng và đãi ngộ nhân tài vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị một cách thiết thực, hiệu quả. Có cơ chế động viên, khích lệ đối với cán bộ, công chức, viên chức tận tâm với công việc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới và đạt thành tích trong thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa các cấp, các ngành, địa phương gắn với quyền hạn và trách nhiệm của từng cấp; khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ. Xây dựng quy chế phối hợp liên ngành, liên cấp nhằm thực nhiệm vụ được liên thông, đồng bộ, đạt hiệu quả tối ưu.
- Thực hiện đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức phải bám sát vào các tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng theo quy định; đánh giá đúng thực chất; kết quả xếp loại chất lượng là cơ sở để sắp xếp, bố trí lại nhân sự, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và kiên quyết đưa ra khỏi hệ thống chính trị những cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng về trình độ, năng lực, sức khỏe theo yêu cầu của vị trí việc làm. Tăng cường công tác kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa chỉ đạo quyết liệt trong công tác đánh giá, xếp loại chất lượng, để xảy ra tình trạng công tác đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ một cách qua loa, hình thức, chưa đúng thực chất.
3.2. Đối với cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị
a) Về nâng cao nhận thức, trách nhiệm cá nhân
- Nhận thức đúng đắn, toàn diện về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân trong tổ chức bộ máy của cơ quan, đơn vị. Xác định rõ vị trí việc làm của bản thân, ý thức và hành vi đúng đắn, phù hợp. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức cần hiểu rõ bản chất, yêu cầu đặt ra trong thực thi nhiệm vụ, hình thành ý thức công vụ gắn với mục tiêu phát triển của cơ quan, đơn vị, địa phương.
- Xác định rõ trách nhiệm của bản thân: Trách nhiệm trước cơ quan, đơn vị và cấp trên; trách nhiệm trước công việc mà trước hết là trách nhiệm đối với chính bản thân mình; trách nhiệm đối với xã hội từ chính các kết quả do bản thân thực hiện.
- Chủ động, linh hoạt và sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ: Thực hiện công việc không nhất thiết phải theo một khuôn mẫu cứng nhắc mà biết ứng biến linh hoạt tùy theo tình huống. Trong triển khai thực hiện công việc, chủ động nghiên cứu quy trình thực hiện công việc, tận dụng tối đa thời gian của cá nhân. Khi có vấn đề phát sinh, mạnh dạn, chủ động đề xuất giải pháp thực hiện; nếu gặp khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ, chủ động xin ý kiến lãnh đạo hoặc đề nghị sự hỗ trợ từ cấp trên nhằm bảo đảm không phát sinh các sự cố gây hậu quả đáng tiếc trong thực hiện nhiệm vụ. Có tinh thần trách nhiệm, cầu thị, hợp tác, chia sẻ, luôn nỗ lực hết mình, tự khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Sẵn sàng đóng góp ý kiến mang tính chất xây dựng, chia sẻ kinh nghiệm, tự nguyện, tự giác đóng góp công sức cho tập thể để hoàn thành mục tiêu chung của cơ quan, đơn vị đề ra. Nâng cao tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động thực thi công vụ nhằm đạt hiệu quả nhiệm vụ được giao. Tích cực và tự giác thực hiện công việc bảo đảm đáp ứng yêu cầu về kết quả thực hiện nhiệm vụ, sẵn sàng giải trình nội dung tham mưu, đề xuất và kết quả thực hiện khi cấp trên yêu cầu hoặc có các ý kiến trái chiều, không đùn đẩy trách nhiệm cho người khác hoặc cho tập thể.
- Nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc tự kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng bản thân; đóng góp ý kiến cho đồng nghiệp phải bảo đảm phản ánh đúng kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, khuyến khích cán bộ có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách, tập trung vào những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với thực tiễn, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung.
b) Về nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phong cách làm việc
- Chủ động tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; tiếp cận, thích ứng và tiến tới làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phù hợp với đặc thù công tác của bản thân. Tự giác trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào xử lý công việc.
- Cần nâng cao phong cách làm việc khoa học, dân chủ, nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi đây là nhiệm vụ thường xuyên phải rèn luyện.
c) Về chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong thực thi nhiệm vụ
- Căn cứ vào vị trí việc làm, nhiệm vụ được phân công, xây dựng kế hoạch công tác cá nhân để triển khai thực hiện nhiệm vụ. Sử dụng có hiệu quả thời gian làm việc, tập trung trí tuệ, phát huy năng lực, sở trường, ý thức tự giác, tinh thần trách nhiệm, sáng tạo, tận tụy, tận tâm trong công việc, giải quyết công việc đảm bảo chất lượng, đúng tiến độ theo yêu cầu nhiệm vụ.
- Chấp hành nghiêm quy định của cơ quan, đơn vị về tiến độ và chất lượng thực hiện nhiệm vụ; nghiêm túc thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao, không để quá hạn, bỏ sót nhiệm vụ được phân công; không đùn đẩy trách nhiệm, không né tránh công việc; phải đeo thẻ công chức, viên chức, nhân viên khi thực hiện nhiệm vụ; trong thực thi nhiệm vụ, phải tuân thủ tính thứ bậc, kỷ cương và trật tự hành chính, đúng thẩm quyền, trách nhiệm được giao.
1. Các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức hội được giao biên chế: Chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện Đề án.
2. Giao Sở Nội vụ là cơ quan chủ trì, có trách nhiệm báo cáo UBND tỉnh việc thực hiện Đề án.
3. Trong quá trình thực hiện, nếu có những vấn đề vướng mắc, phát sinh, đề nghị các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương báo cáo về UBND tỉnh (qua Sở Nội vụ) để xem xét, giải quyết./.
[1] Tại Chỉ thị số 32/2006/CT-TTg ngày 07/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp cần làm ngay để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính các cấp
[2] Chỉ thị số 26-CT/TU ngày 18/4/2014 của Tỉnh ủy Bắc Kạn; Quyết định số 28/2015/QĐ-UBND ngày 24/12/2015 của UBND tỉnh; Kế hoạch số 348/KH-UBND ngày 13/10/2016 của UBND tỉnh; Kế hoạch 165/KH-UBND ngày 03/4/2020 của UBND tỉnh.
[3] Một số tồn tại, hạn chế của các cấp, các ngành:
+ Đối với sản xuất nông, lâm nghiệp, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp chưa đạt kế hoạch đề ra. Công tác quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung đối với cây trồng có thế mạnh còn chậm. Chuỗi liên kết sản xuất với tiêu thụ còn yếu. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm. Công tác quản lý giống, vật tư có nơi chưa được coi trọng ...
+ Công nghiệp - xây dựng tăng trưởng chưa ổn định, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; quy mô và giá trị sản xuất công nghiệp chưa cao; các cụm công nghiệp chưa được đầu tư; chưa thu hút được dự án công nghiệp lớn sử dụng công nghệ hiện đại ...
+ Du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; nhiều tuyến du lịch sinh thái tiềm năng chưa được đầu tư phát triển...
+ Việc lập quy hoạch xây dựng của tỉnh chưa đồng bộ; công tác điều chỉnh quy hoạch xây dựng, nhất là điều chỉnh cục bộ, quy hoạch chi tiết chưa có tính hệ thống ...
+ Sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và hợp tác xã, tuy chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tăng nhưng thứ hạng chưa được cải thiện. Việc thu hút các dự án có quy mô lớn còn hạn chế. Một số dự án sau xúc tiến đầu tư triển khai còn chậm. Quy mô các doanh nghiệp, hợp tác xã của tỉnh còn nhỏ, sức cạnh tranh thấp, khó tìm thị trường ổn định cho sản phẩm...
+ Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở một số địa phương còn chậm, vẫn còn tình trạng tự ý chuyển mục đích sử dụng đất. Công tác giải quyết tranh chấp đất tại các lâm trường chưa dứt điểm...
+ Công tác đầu tư tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu đổi mới công nghệ còn nhiều khó khăn; công nghệ sản xuất của đa số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh còn lạc hậu; thị trường khoa học và công nghệ chưa phát triển...
+ Công tác giảm nghèo chưa thực sự bền vững, một số địa phương có tỷ lệ hộ nghèo, tái nghèo còn cao; chất lượng và tỷ lệ lao động qua đào tạo chưa cao...
+ Việc nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý các cấp còn khó khăn; chất lượng giáo dục được nâng lên qua từng năm, song còn thấp so với mặt bằng chung của khu vực; tỷ lệ học sinh có học lực yếu, học sinh bỏ học còn cao; số học sinh đạt giải các cuộc thi cấp quốc gia còn ít.
+ Chất lượng dịch vụ y tế tại các tuyến chưa đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân; tỷ lệ thực hiện kỹ thuật theo phân tuyến của Bộ Y tế tại tuyến xã và tuyến huyện còn thấp.
+ Công tác thông tin và truyền thông đạt kết quả khá, tuy nhiên nội dung trong hoạt động thông tin, báo chí chưa thực sự hấp dẫn; tỷ lệ xã, phường có trạm truyền thanh hoạt động tốt chưa đạt chỉ tiêu đề ra; hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin còn yếu, việc triển khai tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính trên hệ thống một cửa điện tử tại một số cơ quan đơn vị cấp huyện, cấp xã chưa đầy đủ...
+ Việc triển khai thực hiện một số chính sách dân tộc có lúc chưa kịp thời; hoạt động của các tổ chức bất hợp pháp tại một số địa phương còn nhiều diễn biến phức tạp.
+ Một số cuộc thanh tra còn kéo dài, chất lượng chưa cao, sự phối hợp thực hiện thanh tra, kiểm tra giữa các cấp, các ngành chưa đồng bộ, thống nhất dẫn đến có lúc còn chồng chéo; việc đôn đốc xử lý sau thanh tra còn chậm. Một số địa phương chưa tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm đơn thư khiếu nại, tố cáo; giải quyết vấn đề chưa triệt để vẫn còn biểu hiện né tránh…
[4] Trung bình kết quả xếp loại chất lượng công chức, viên chức cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã từ năm 2016 đến năm 2020, như sau:
- Kết quả xếp loại chất lượng công chức cấp tỉnh, cấp huyện: Tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 16%; hoàn thành tốt nhiệm vụ: 81%; hoàn thành nhiệm vụ: 2%; không hoàn thành nhiệm vụ: 1%.
- Trung bình kết quả xếp loại chất lượng viên chức cấp tỉnh, cấp huyện: Tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 19,45%; hoàn thành tốt nhiệm vụ: 72,95%; hoàn thành nhiệm vụ: 7,40%; không hoàn thành nhiệm vụ: 0,21%.
- Trung bình kết quả xếp loại chất lượng cán bộ, công chức cấp xã: Tỷ lệ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 2,92%; hoàn thành tốt nhiệm vụ: 92,68%; hoàn thành nhiệm vụ: 3,29%; không hoàn thành nhiệm vụ: 0,61%; số cán bộ, công chức chưa đủ điều kiện để đánh giá xếp loại: 0,51%.
[5] Tính đến thời điểm 30/6/2021, có 63/212 công chức tinh giản thực chất đạt 3,88% tỷ lệ tinh giản biên chế trong giai đoạn 2015-2021; có 113/1.112 viên chức tinh giản thực chất đạt 1,08% tỷ lệ tinh giản biên chế trong giai đoạn 2015-2021; có 443 cán bộ, công chức cấp xã tinh giản thực chất trong giai đoạn 2015-2021.
[6] Tính đến thời điểm 30/12/2021, tổng số cán bộ, công chức, viên chức trên địa bàn tỉnh có mặt là 12.471 người, cụ thể về trình độ, như sau:
- Số lượng công chức: 1.356 người, trong đó: Trình độ chuyên môn: Tiến sỹ và Chuyên khoa II: 0,5%, Thạc sỹ và chuyên khoa I: 21,6%, Đại học: 72,9%, Cao đẳng: 1,4%, Trung cấp: 2,9%, Sơ cấp: 0,5%. Trình độ Lý luận chính trị: Cử nhân: 1,1%, Cao cấp: 35,8%, Trung cấp: 28,8.%, Sơ cấp: chiếm 4,0%. Trình độ ngoại ngữ: Đại học trở lên: 1,6%; Có chứng chỉ tiếng Anh: 85,2%; Ngoại ngữ khác: 0,8%. Trình độ Tin học: Từ Trung cấp trở lên: 2,8%; Có chứng chỉ Tin học: 94,2%. Trình độ QLNN: CVCC và tương đương: 2,4%; CVC và tương đương: 37%; CV và tương đương: 52%.
- Số lượng viên chức: 8.881 người, trong đó: Trình độ chuyên môn: Tiến sỹ: 0; Chuyên khoa II: 0,14%; Thac sỹ và Chuyên khoa I: 5%; Đại học: 57,3%; Cao đẳng: 22,8%; Trung cấp: 14,4%); Còn lại: 0,3%. Trình độ lý luận chính trị: Cử nhân: 0,04%; Cao cấp: 2,4%; Trung cấp: 11,1%; Sơ cấp: 13,5%; Còn lại: 69,9%. Trình độ ngoại ngữ: Tiếng Anh: Đại học trở lên: 3,2%; Chứng chỉ: 60,5%; Ngoại ngữ khác: 2,3%. Trình độ Tin học: Trung cấp trở lên: 0,4%; Chứng chỉ: 81,2%.
- Số lượng công chức cấp xã: 2.234 người, trong đó: Trình độ chuyên môn: Tiến sỹ: 0; Thạc sỹ: 0,14%; Đại học: 68,1%; Cao đẳng: 0,45; Trung cấp: 25,1%; Sơ cấp: 0,06%. Trình độ Lý luận chính trị: Cử nhân: 0,01%; Cao cấp: 0,16%; Trung cấp: 67%; Sơ cấp: 0,8%. Trình độ ngoại ngữ: Đại học trở lên: 0,12%; Chứng chỉ: 39,7%
[7] Trích Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020-2025.
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây