Quyết định 573/2012/QĐ-VKSTC-V12 ban hành Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Quyết định 573/2012/QĐ-VKSTC-V12 ban hành Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
Số hiệu: | 573/QĐ-VKSTC-V12 | Loại văn bản: | Quyết định |
Nơi ban hành: | Viện kiểm sát nhân dân tối cao | Người ký: | Nguyễn Thị Thủy Khiêm |
Ngày ban hành: | 15/10/2012 | Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
Số hiệu: | 573/QĐ-VKSTC-V12 |
Loại văn bản: | Quyết định |
Nơi ban hành: | Viện kiểm sát nhân dân tối cao |
Người ký: | Nguyễn Thị Thủy Khiêm |
Ngày ban hành: | 15/10/2012 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 573/QĐ-VKSTC-V12 |
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2012 |
VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY CHẾ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
- Căn cứ Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002;
- Căn cứ Nghị quyết số 356/2003/NQUBTVQH 11 ngày 25/02/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn Quyết định số 01/VKSTC-TCCB ngày 19/02/2003 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ, Vụ trưởng Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, lao động, kinh tế và phá sản doanh nghiệp
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1. Ban hành Quy chế về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Quyết định này thay thế Quyết định số 56/QĐ-V12 ngày 22/12/1999 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phần quy định về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 01/12/2012.
Điều 3. Chánh văn phòng, Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ, Vụ trưởng Vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, lao động, kinh tế và phá sản doanh nghiệp, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thi hành Quyết định này./
Nơi
nhận; |
KT.
VIỆN TRƯỞNG |
CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
(Ban hành theo Quyết định số 573/2012/QĐ-VKSTC-V12 ngày 15/10/2012 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính là một trong những công tác thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính của Tòa án kịp thời, đúng pháp luật.
Đối tượng của công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính là việc tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính.
Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án.
Trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện thì Viện kiểm sát thực hiện hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại các Điều 109, Điều 110 Luật tố tụng hành chính.
Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
1. Kiên nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người đó theo quy định tại khoản 3 Điều 23 Luật Tố tụng hành chính.
2. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện;
3. Kiểm sát việc thụ lý vụ án; việc chuyển hồ sơ vụ án;
4. Kiểm sát việc ra Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án;
5. Yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ hoặc tự thu thập hồ sơ tài liệu, vật chứng để xem xét quyết định việc kháng nghị; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ cung cấp chứng cứ;
6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật những người tham gia tố tụng hành chính kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại các phiên tòa, phiên họp theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo thủ tục đặc biệt, xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán;
7. Kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính;
8. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Tòa án;
9. Yêu cầu hoãn thi hành án; tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật khi thực hiện kháng nghị theo thẩm quyền quy định tại Điều 213 Luật Tố tụng hành chính;
10. Thực hiện quyền kiến nghị đối với các vi phạm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo quy định tại Điều 19 Thông tư Liên tịch số 03/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01/8/2012 (viết tắt là Thông tư liên tịch số 03/2012);
Kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi có căn cứ xác định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao mà đương sự không biết được khi ra quyết định đó.
11. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.
Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp, Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ quyền có nhiệm vụ tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính. Khi thực hiện nhiệm vụ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ quyền có quyền hạn quy định tại Điều 39 Luật Tố tụng hành chính.
Kiểm sát viên các cấp được Viện trưởng giao nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 40 Luật Tố tụng hành chính và Quy chế này; Chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; Lãnh đạo Phòng, Lãnh đạo Viện trực tiếp phụ trách đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Lãnh đạo Vụ và Lãnh đạo Viện trực tiếp phụ trách đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính có quan điểm khác với quan điểm của Lãnh đạo trực tiếp phụ trách thì vẫn phải chấp hành nhưng có quyền bảo lưu quan điểm của mình và báo cáo với Lãnh đạo cấp cao hơn. Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh thì báo cáo đồng chí Viện trưởng, đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì báo cáo Lãnh đạo Viện trực tiếp phụ trách. Ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp đó là ý kiến cuối cùng và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, cơ quan có liên quan để thực hiện tốt công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính.
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYÉT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Điều 6. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
Sau khi nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Toà án cùng cấp, trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được văn bản, Viện kiểm sát phải tiến hành xem xét, nếu thấy việc Tỏa án trả lại đơn khởi kiện không đúng thì thực hiện quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Tố tụng hành chính.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị của Viện kiểm sát nếu Chánh án Toà án cùng cấp ra quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện. Trường hợp không đồng ý với quyết định của Chánh án trong thời hạn 10 ngày làm việc, Viện kiểm sát cùng cấp kiến nghị với Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp theo quy định tại khoản 3 Điều 110 Luật Tố tụng hành chính. Trong thời hạn 07 ngày làm việc Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp phải giải quyết. Quyết định của Chánh án Toà án cấp trên là quyết định cuối cùng.
Điều 7. Kiểm sát việc thụ lý vụ án
Khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính phải vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát thông báo thụ lý theo những nội dung quy định tại Điều 114 Luật Tố tụng hành chính.
Căn cứ vào các Điều 28, Điều 29, Điều 30 Luật Tố tụng hành chính xem xét thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án, nếu phát hiện việc Tòa án thụ lý vụ án sai thẩm quyền thì báo cáo Lãnh đạo Viện thực hiện quyền kiến nghị; theo dõi thời hạn giải quyết vụ án của Toà án thông qua việc nhận được các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Báo cáo Lãnh đạo Viện cử Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự khuyết tham gia việc giải quyết vụ án và Thông báo cho Toà án theo quy định tại khoản 4 Điều 115 Luật Tố tụng hành chính.
Điều 8. Kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm
1. Khi nhận được các văn bản tố tụng: Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, văn bản thông báo về việc không ra quyết định áp dụng thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (quy định tại Chương V Luật Tố tụng hành chính), quyết định đưa vụ án ra xét xử (quy định tại Điều 123 Luật Tố tụng hành chính), Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công thực hiện hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính phải tiến hành kiểm sát các quyết định này. Nếu có căn cứ cho rằng Tòa án ban hành các văn bản trên là không đúng quy định của pháp luật thì thực hiện quyền kiến nghị theo quy định tại khoản Điều 70 Luật Tố tụng hành chính.
2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án
Việc nhận hồ sơ và thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên toà, phiên họp sơ thẩm của Viện kiểm sát được thực hiện theo quy định tại Điều 124 Luật Tố tụng hành chính và điểm a khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2012.
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công thực hiện hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính phải nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra, đánh giá tính hợp pháp, tính có căn cứ của các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp hoặc do Toà án xác minh, thu thập theo quy định tại chương VI Luật Tố tụng hành chính. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nếu thấy các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chưa bảo đảm cho việc giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật thì Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện thực hiện quyền yêu cầu Toà án xác minh thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật Tố tụng hành chính và Điều 4 Thông tư liên tịch số 03/2012.
Ngoài xem xét về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Tòa án mở phiên tòa, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên nghiên cứu hồ sơ vụ án vẫn thực hiện việc xem xét yêu cầu khởi kiện, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đối chiếu với các văn bản quy phạm pháp luật về nội dung quan hệ đang có tranh chấp để kiểm sát việc Toà án giải quyết vụ án, bảo đảm việc giải quyết vụ án của Toà án đúng pháp luật, thực hiện quyền kháng nghị của Viện kiểm sát khi Tòa án ra quyết định giải quyết vụ án không đúng pháp luật.
Kiểm sát viên được phân công thực hiện kiểm sát việc giải quyết vụ án cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ để nắm vững nội dung và các tình tiết của vụ án, dự thảo đề cương những nội dung cần làm sáng tỏ để hỏi tại phiên tòa, dự kiến các tình huống khác có thể phát sinh tại phiên toà. Bản đề cương hỏi phải được lưu trong hồ sơ kiểm sát. Dự thảo Bản phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, như: yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện có thuộc thẩm quyền loại việc do Toà án giải quyết; Toà án thụ lý vụ án có đúng thẩm quyền; Toà án xác định những người tham gia tố tụng hành chính đã đầy đủ, đúng với quy định của pháp luật; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi tiến hành tố tụng? Thẩm phán lấy lời khai của những người tham gia tố tụng, yêu cầu đương sự nộp tài liệu chứng cứ, tự xác minh thu thập tài liệu chứng cử đã đầy đủ, yêu cầu cơ quan cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ, có bảo đảm đúng quy định của pháp luật? Việc Thẩm phán ra quyết định hoặc không ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (nếu có)? Việc xem xét thẩm định tại chỗ, việc trưng cầu giám định, việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản, việc ủy thác thu thập chứng cứ...(nếu có) của Thẩm phán..việc thực hiện các thủ tục tố tụng tại phiên toà của Hội đồng xét xử như việc triệu tập đương sự, hỏi các đương sự...có đúng với quy định của Luật tố tụng hành chính?
Làm tờ trình báo cáo, ký và ghi rõ họ tên với Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện về nội dung vụ án, ý kiến chuẩn bị phát biểu tại phiên tòa, quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của đương sự. Lầnh đạo đơn vị hoặc Lãnh đạo Viện phải có ý kiến phê duyệt, ký và ghi rõ họ tên vào tờ trình của người nghiên cứu hồ sơ, báo cáo án.
3. Lập hồ sơ kiểm sát
Người được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án phải lập hồ kiểm sát, trích cứu đầy đủ, trung thực lời trình bày của các đương sự, sao chụp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ do các đương sự nộp hoặc do Toà án thu thập có trong hồ sơ vụ án; Các tài liệu có trong hồ sơ kiểm sát phải được đánh số thứ tự theo thời gian và lập bản kê danh mục tài liệu theo quy định về công tác văn thư lưu trữ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hành chính tại phiên toà
Tại phiên toà, Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, thư ký Toà án, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính.
Nếu phát hiện có vi phạm về thủ tục tố tụng hành chính thì yêu cầu Hội đồng xét xử khắc phục kịp thời.
Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên toà trong những trường hợp quy định tại Điều 136 Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp Kiểm sát viên đề nghị hoãn phiên toà nhưng Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử thì Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên toà nhưng sau phiên toà Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với Lãnh đạo Viện.
5. Tại phiên tòa, khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên có thể yêu cầu Hội đồng xét xử công bố tài liệu, cho nghe băng ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình (nếu có).
Kiến nghị Hội đồng xét xử về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (nếu có).
6. Kiểm sát viên tham gia hỏi tại phiên toà trong trường hợp cần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Khi tham gia phiên toà, Kiểm sát viên cần theo dõi, ghi chép nội dung hỏi của Hội đồng xét xử, trả lời của người được hỏi, đối chiếu với những vấn đề đã chuẩn bị trong bản đề cương. Sau khi Hội đồng xét xử kết thúc việc hỏi, Kiểm sát viên hỏi những vấn đề còn chưa rõ nhằm làm sáng tỏ vụ án.
7. Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên toà
Căn cứ Điều 160 Luật Tố tụng hành chính và Điều 14 Thông tư liên tịch số 03/2012, về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, của người tham gia tố tụng.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên toà, trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Kiểm sát viên bổ sung vào bản ý kiến của Viện kiểm sát đã chuẩn bị trước, phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng hành chính kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Khi Chủ toạ phiên toà tuyên án, Kiểm sát viên phải ghi lại những nhận định và các căn cứ pháp luật cũng như phần quyết định giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử để có căn cứ đối chiếu với bản án do Toà án gửi tới Viện kiểm sát.
8. Xem biên bản phiên toà theo quy định tại khoản 4 Điều 140 Luật Tố tụng hành chính và Điều 6 Thông tư số 03/2012.
9. Hoạt động của Kiểm sát viên sau phiên tòa sơ thẩm
Sau phiên tòa, Kiểm sát viên báo cáo kết quả xét xử với Lãnh đạo Viện, nếu quyết định giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về nội dung hoặc về thủ tục tố tụng thì đề xuất bằng văn bản việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khi thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp mình đã hết.
Neu thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp đã hết thì Kiểm sát viên đề xuất với Lãnh đạo Viện, báo cáo đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm theo thẩm quyền.
Đồng thời với các hoạt động trên, Kiểm sát viên đã tham gia phiên tòa phải hoàn chỉnh Bản phát biểu ý kiến của mình, ký tên, đóng dấu và gửi cho Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên tòa để lưu vào hồ sơ vụ án, theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Thông tư số 03/2012.
Khi nhận được bản án, quyết định sơ thẩm, Viện kiểm sát cấp sơ thẩm phải sao gửi ngay 01 bản kèm theo Phiếu kiểm sát bản án, quyết định, thông báo việc kháng cáo (nếu có) cho Viện kiểm sát cấp phúc thẩm để Viện kiểm sát cấp phúc thẩm thực hiện quyền năng pháp lý theo thẩm quyền.
Hoạt động kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 11 của Quy chế này.
Điều 9. Kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm
1. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 181 Luật Tố tụng hành chính thì:
- Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện được Viện trưởng ủy quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Viện trưởng hoặc Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh được Viện trưởng uỷ quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân cấp huyện.
- Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Viện trưởng uỷ quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh.
2. Yêu cầu Toà án cấp sơ thẩm chuyển hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2012.
3. Quyết định kháng nghị phúc thẩm
Quyết định kháng nghị phải nêu cụ thể những vi phạm pháp luật của bản án, quyết định sơ thẩm đang bị kháng nghị. Kháng nghị phải thể hiện được đầy đủ các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 182 Luật Tố tụng hành chính.
Thời hạn kháng nghị được thực hiện theo Điều 183 Luật Tố tụng hành chính, cụ thể: thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày tuyên án.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định.
Trường hợp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện kháng nghị phúc thẩm thì Quyết định kháng nghị phải được gửi đến Toà án sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 182 Luật Tố tụng hành chính, kèm theo tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp; gửi cho các đương sự liên quan đến kháng nghị theo quy định tại Điều 184 Luật Tố tụng hành chính, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để chuẩn bị tham gia phiên toà phúc thẩm. Trường hợp Viện trưởng viện kiểm sát cấp trên kháng nghị phúc thẩm thì ngoài việc gửi Quyết định kháng nghị cho Tòa án cùng cấp, các đương sự, Viện kiểm sát cấp trên phải gửi Quyết định kháng nghị cho Viện kiểm sát cấp sơ thẩm (nơi có bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị) để biết.
4. Nghiên cứu hồ sơ vụ án có kháng cáo, bị kháng nghị và lập hồ sơ kiểm sát
Việc nhận hồ sơ và thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án để tham gia phiên tòa phúc thẩm của Viện kiểm sát được thực hiện theo quy định tại Điều 200 Luật Tố tụng hành chính và điểm b khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2012.
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công thực hiện kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm; việc thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ; việc ban hành các quyết định; thời hạn giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm.
Việc nghiên cứu hồ sơ ở thủ tục phúc thẩm được thực hiện như khoản 2 Điều 8 Quy chế; trong đó tập trung vào yêu cầu khởi kiện, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, nội dung kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát cấp sơ thẩm (nếu có).
Việc lập hồ sơ kiểm sát và làm Tờ trình báo cáo Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện ở thủ tục phúc thẩm được thực hiện như khoản 3 Điều 8 Quy chế, ngoài ra hồ sơ kiểm sát ở thủ tục phúc thẩm còn có đơn kháng cáo của đương sự, các tài liệu chứng cứ do Tòa án cấp phúc thẩm thu thập, các tài liệu chứng cứ do đương sự giao, nộp cho tòa án ở thủ tục phúc thẩm hoặc các tài liệu chứng cứ do Viện kiểm sát xác minh, thu thập..., kháng nghị của Viện kiểm sát nếu có.
Quan điểm về việc giải quyết vụ án ở thủ tục phúc thẩm phải được chuẩn bị đúng quy định tại Điều 16 Thông tư liên tịch số 03/2012.
Khi thực hiện kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục phúc thẩm, Kiểm sát viên thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh thu thập chứng cứ, quyền tiến hành thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật Tố tụng hành chính và Điều 4, Điều 5 Thông tư số 03/2012;
5. Bổ sung, thay đổi, rút quyết định kháng nghị.
Việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 188 Luật Tố tụng hành chính.
Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng nghị đã hết.
Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút quyết định kháng nghị.
Việc thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị phải do Viện trưởng có thẩm quyền quyết định bằng văn bản; quyết định thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị được gửi Tòa án cấp phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm có bản án, quyết định bị kháng nghị và các đơn vị liên quan theo quy định tại khoản 3 Điều này.
Nếu Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định rút kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới thì phải trao đổi với Viện trưởng Viện kiểm sát cấp sơ thẩm đã kháng nghị; Nếu Viện kiểm sát cấp dưới không nhất trí thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó.
Tại phiên tòa nếu có đầy đủ tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử tạm dừng phiên tòa, báo cáo Lãnh đạo về việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị. Nếu Hội đồng xét xử không tạm dừng phiên toà thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có quyền thay đổi, bổ sung, rút quyết định kháng nghị và phải chịu trách nhiệm. Sau phiên tòa, Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện bằng văn bản và thông báo cho Viện kiểm sát sơ thẩm đã kháng nghị biết.
6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cấp phúc thẩm
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu từ việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa, thủ tục hỏi, công bố các tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 204 Luật Tố tụng hành chính; việc tuyên án của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
7. Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm
Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa phải chuẩn bị bản dự thảo ý kiến của Viện kiểm sát để phát biểu tại phiên tòa, với nội dung: nhận xét về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm (thụ lý, xác minh bổ sung chứng cứ theo yêu cầu của đương sự hoặc do Tòa án tự tiến hành, thời hạn chuẩn bị xét xử, thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm...), việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng (thời hạn kháng cáo, việc chấp hành các lần triệu tập của Tòa án phúc thẩm, nội dung yêu cầu Tòa án xác minh bổ sung chứng cứ...) từ khi thụ lý cho đến trước khi mở phiên tòa phúc thẩm; việc áp dụng pháp luật tố tụng cũng như pháp luật nội dung của Tòa án cấp sơ thẩm để ra bản án, quyết định đang có kháng cáo, bị kháng nghị phúc thẩm.
Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 16 Thông tư liên tịch số 03/2012.
Trường hợp tại phiên tòa, có những tài liệu, chứng cứ mới làm thay đổi quan điểm giải quyết vụ án đã được Lãnh đạo Viện cho ý kiến thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tạm dừng phiên tòa, báo cáo Lãnh đạo Viện xin ý kiến chỉ đạo; nếu Hội đồng xét xử không tạm dừng phiên tòa thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án và phải chịu trách nhiệm. Sau phiên tòa phải báo cáo ngay với Lãnh đạo Viện.
8. Hoạt động của Kiểm sát viên sau phiên tòa, phiên họp phúc thẩm
Sau phiên toà, phiên họp phúc thẩm, Kiểm sát viên báo cáo kết quả xét xử với Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện; đề xuất việc báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi xét thấy việc giải quyết vụ án của Tòa án có vi phạm về pháp luật nội dung hoặc về thủ tục tố tụng.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 16 Thông tư số 03/2012 thì Kiểm sát viên sau khi tham gia phiên tòa phúc thẩm kết thúc phải hoàn chỉnh Bản phát biểu ý kiến của mình, ký tên, đóng dấu, gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 05 ngày làm việc. Trường hợp đợt xét xử kéo dài quá 5 ngày, sau khi kết thúc đợt xét xử đó thì Kiểm sát viên khẩn trương hoàn thành bản phát biểu và gửi ngay cho Tòa án cấp phúc thẩm.
Sau khi nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát bản án, quyết định phúc thẩm theo quy định tại Điều 11 của Quy chế này.
Điều 10. Kiểm sát việc giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
1. Nguồn phát hiện vi phạm:
- Đơn đề nghị của đương sự; kiến nghị của các cơ quan, tổ chức cá nhân khác theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 211 Luật Tố tụng hành chính.
- Báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
2. Yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án
Để xác định bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án bị khiếu nại, kiến nghị có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát làm văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định đó chuyển hồ sơ vụ án để xem xét, giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2012.
3. Nghiên cứu hồ sơ vụ án và lập hồ sơ kiểm sát
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án và các tài liệu liên quan phải lập hồ sơ kiểm sát, làm tờ trình báo cáo vụ án theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 8 Quy chế này. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét phần nhận định và quyết định của bản án, quyết định đang bị đề nghị hoặc kiến nghị xét xem có đúng với quy định của pháp luật không.
Nếu có căn cứ xác định bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định thì đề xuất với Lãnh đạo đơn vị, báo cáo Lãnh đạo Viện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Nếu bản án, quyết định đã phù hợp với quy định của pháp luật thì báo cáo Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện trả lời cho đương sự.
Đối với các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm pháp luật do Chánh án Toà án có thẩm quyền kháng nghị, Người nghiên cứu hồ sơ đề xuất quan điểm đối với Quyết định kháng nghị với Lãnh đạo đơn vị. Trường hợp không nhất trí với kháng nghị của Chánh án phải báo với Lãnh đạo đơn vị, trường hợp cần thiết Lãnh đạo đơn vị báo cáo Lãnh đạo Viện.
4. Về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo quy định tại Điều 212 Luật Tố tụng hành chính thì:
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Viện trưởng ủy quyền có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh được Viện trưởng ủy quyền có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện.
5. Viện kiểm sát tự thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng khi xét thấy cần thiết để thực hiện quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm theo khoản 3 Điều 78 Luật Tố tụng hành chính, Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2012.
6. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Căn cứ một trong các khoản của Điều 210, Điều 233 Luật Tố tụng hành chính để kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Nội dung Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 214 Luật Tố tụng hành chính. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm phải phân tích rõ những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới bị khiếu nại, kiến nghị.
Việc hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 213 Luật Tố tụng hành chính.
Việc gửi Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 216 Luật Tố tụng hành chính đồng thời gửi Viện kiểm sát cấp trẽn để báo cáo, gửi Viện kiểm sát cấp dưới nơi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để theo dõi.
7. Bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị.
Trước khi mở phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm, Viện trưởng Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị (nếu chưa hết thời hạn kháng nghị) theo quy định tại Điều 217 Luật Tố tụng hành chính.
Quyết định thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị phải thực hiện bằng văn bản, nêu rõ lý do. Việc gửi quyết định thay đổi, bổ sung rút kháng nghị thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 216 Luật Tố tụng hành chính.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có đầy đủ tài liệu, chứng cử làm thay đổi nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tạm dừng phiên toà, báo cáo Lãnh đạo Viện xem xét quyết định việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị; nếu Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục phiên tòa thì Kiểm sát viên tham gia phiên toà theo quy định của pháp luật. Ngay sau phiên tòa phải báo cáo Lãnh đạo đơn vị và Lãnh đạo Viện về những tài liệu, chứng cứ làm thay đổi nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát.
8. Tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm
Kiểm sát viên trung cấp tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm tại ủy ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm tại các Toà chuyên trách, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Trước khi tham gia phiên toà, Kiểm sát viên phải chuẩn bị dự thảo bản phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát (đối với vụ án do Chánh án Toà án kháng nghị). Dự thảo bản phát biểu phải thể hiện rõ quan điểm của Viện kiểm sát (nhất trí hoặc không nhất trí) đối với những vấn đề nêu trong quyết định kháng nghị của Chánh án Toà án, căn cứ pháp luật để đưa ra các quan điểm này. Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày bản Dự thảo đã chuẩn bị, trong trường hợp có những tài liệu mới phát sinh tại phiên tòa có thể làm thay đổi quan điểm giải quyết vụ án đã được Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện cho ý kiến thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử cho tạm dừng phiên tòa để báo cáo Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện xem xét quyết định.
Đối với vụ án do Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị, Kiểm sát viên kiểm tra, xem xét toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nhất là các tài liệu chứng cứ được coi là căn cứ để kháng nghị, các văn bản pháp luật được nêu trong Quyết định kháng nghị. Tại phiên toà, Kiểm sát viên phân tích các vi phạm pháp luật của bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án cấp dưới bị kháng nghị; đề nghị hướng giải quyết cụ thể đối với bản án quyết định có hiệu lực bị kháng nghị.
Khi tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử về thành phần, trình tự, thủ tục, quá trình thảo luận, việc biểu quyết của Hội đồng xét xử; ghi chép đầy đủ diễn biến phiên toà, kết quả phiên toà.
Sau phiên toà, Kiểm sát viên báo cáo với Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng văn bản; hoàn chỉnh Bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên và gửi cho Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc theo quy định tại khoản 3 Điều 17 Thông tư liên tịch số 03/2012, theo dõi việc ban hành và gửi quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Toà án; thông báo kết quả xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cho Viện kiểm sát nơi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
Điều 11. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án
1. Kiểm sát các quyết định của Toà án để thực hiện quyền kiến nghị
Khi nhận được các quyết định: Quyết định chuyển vụ án cho Tòa án khác (Điều 32 Luật Tố tụng hành chính); Quyết định nhập hoặc tách vụ hành chính (Điều 33 Luật Tố tụng hành chính); Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 61, Điều 68 Luật Tố tụng hành chính ); Quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (Điều 63 Luật Tố tụng hành chính); tạm dừng việc thực hiện hành vi hành chính (Điều 64 Luật Tố tụng hành chính); cấm hoặc buộc thực hiện những hành vi nhất định (Điều 65 Luật Tố tụng hành chính); Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính phải vào sổ theo dõi, lập phiếu kiểm sát đối với các quyết định, theo nội dung: tính có căn cứ, hợp pháp của quyết định như lý do ra quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể ... thời hạn Toà án gửi quyết định cho Viện kiểm sát...; Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì thực hiện quyền kiến nghị đối với từng vụ việc cụ thể hoặc tập hợp để kiến nghị theo quy định tại Điều 23 Luật Tố tụng hành chính.
2. Kiểm sát bản án, quyết định của Toà án để thực hiện quyền kháng nghị.
Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị đối với: Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; bản án sơ thẩm; bản án, quyết định phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm.
Khi nhận được các loại quyết định, bản án nêu trên, Kiểm sát viên phải vào sổ theo dõi, lập phiếu kiểm sát, kiểm tra tính có căn cứ, hợp pháp của bản án, quyết định. Nếu phát hiện có vi phạm về hình thức như: Toà án gửi không đúng thời hạn, hình thức bản án, quyết định không đúng với quy định của Luật tố tụng hành chính cũng như hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao... thì tập hợp để kiến nghị chung. Trường hợp phát hiện bản án, quyết định vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc pháp luật nội dung thì báo cáo Lãnh đạo Viện kháng nghị hoặc báo cáo đề nghị Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với quyết định, bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, đối với quyết định, bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
Khi kiểm sát bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Tòa án, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cử, tự mình thu thập chứng cứ để thực hiện quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo quy định tại khoản 3 Điều 78 Luật Tố tụng hành chính. Việc yêu cầu Tòa án xác minh thu thập chứng cứ hoặc tự mình thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hành chính và quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm sát.
Việc kiến nghị xem xét lại Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và việc tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán được quy định tại điểm c, khoản 1, khoản 4 Điều 239; khoản 2, khoản 3 Điều 240 Luật Tố tụng hành chính và theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Điều 13. Tiếp nhận, giải quyết đơn khiếu nại trong tố tụng hành chính
Viện kiểm sát cấp sơ thẩm nhận được đơn của đương sự khiếu nại việc Toà án trả lại đơn khởi kiện do bộ phận Khiếu tố hoặc phòng khiếu tố chuyển tới, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn theo quy định tại Điều 110 Luật Tố tụng hành chính và Điều 6 của Quy chế này.
Khi nhận được đơn khiếu nại do bộ phận Khiếu tố hoặc phòng khiếu tố chuyển tới về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công giải quyết đơn, phải kiểm tra, xem xét nội dung, hình thức, căn cứ Tòa án áp dụng để ra các Quyết định này, báo cáo Lãnh đạo Viện, Lãnh đạo Phòng thực hiện quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, nếu đương sự khiếu nại Hội đồng xét xử về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có quyền kiến nghị Hội đồng xét xử theo quy định tại Điều 70 Luật Tố tụng hành chính.
Tòa án giải quyết kiến nghị của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 71 Luật Tố tụng hành chính.
1. Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
Khi nhận đơn của đương sự đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện thì bộ phận Khiếu tố thực hiện việc cấp "Giấy xác nhận đã nhận đơn" cho đương sự theo quy định tại khoản 3 Điều 211 Luật Tố tụng hành chính và Hướng dẫn số 4107/VKSTC-V7 ngày 22/12/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đồng thời gửi đơn đề nghị của đương sự và bản sao "Giấy xác nhận đã nhận đơn" cho Viện kiêm sát nhân dân cấp tỉnh để xem xét giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
Khi nhận đơn của đương sự đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện do phòng khiếu tố chuyển thì Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công nghiên cứu đơn phải đối chiếu nội dung đơn, các tài liệu kèm theo đơn đề nghị (nếu có) với nội dung quyết định của bản án, quyết định đang bị đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì đề xuất Lãnh đạo Phòng rút hồ sơ vụ án, nghiên cứu báo cáo Viện trưởng xem xét giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Khi nhận đơn của đương sự đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định hành chỉnh sơ thẩm nhưng đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Phòng khiếu tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc cấp "Giấy xác nhận đã nhận đơn" cho đương sự theo quy định tại khoản 3 Điều 211 Luật Tố tụng hành chính, hướng dẫn số 4107/VKSTC-V7 ngày 22/12/2011 của Viện kiêm sát nhân dân tối cao đồng thời gửi đơn đề nghị của đương sự và bản sao "Giấy xác nhận đã nhận đơn" cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Đối với Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Khi nhận được đơn đề nghị xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định hành chính phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc cấp “Giấy xác nhận đã nhận đơn” cho đương sự theo quy định tại khoản 3 Điều 211 Luật Tố tụng hành chính, hướng dẫn số 4107/VKSTC- V7 ngày 22/12/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đồng thời gửi đơn đề nghị của đương sự và bản sao "Giấy xác nhận đã nhận đơn" cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Vụ nghiệp vụ làm công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính Viện kiểm sát tối cao khi nhận đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định hành chính đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp dưới thì phòng tham mưu tổng hợp làm nhiệm vụ quản lý đơn tiến hành thụ lý và chuyển cho Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên được phân công tiến hành xem xét. Nếu phát hiện thấy vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định thì báo cáo Lãnh đạo vụ làm văn bản yêu cầu Toà án chuyển hồ sơ theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2012. Việc nghiên cứu hồ sơ theo đơn đề nghị của đương sự được thực hiện theo quy định tại Điều 10 Quy chế này.
Sau khi có kết quả giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cán bộ quản lý đơn liên hệ với người giải quyết án và văn thư của đơn vị thụ lý số, ngày văn bản đã giải quyết của từng vụ án. Tiến hành tập hợp số liệu làm báo cáo thống kê, báo cáo tổng hợp định kỳ theo quy định của ngành, yêu cầu cơ quan, đơn vị.
Khi nhận được đơn tố cáo những việc làm trái pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hành chính, Viện kiểm sát các cấp phải vào sổ thụ lý và xem xét, xử lý theo quy định tại Chương XVII Luật Tố tụng hành chính và quy chế của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ, CHỈ ĐẠO, ĐIÈU HÀNH
Điều 16. Quản lý hồ sơ kiểm sát vụ án hành chính
Người được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính ở các thủ tục: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, thủ tục đặc biệt bắt buộc phải lập hồ sơ kiểm sát theo quy định tại Quy chế này.
Hồ sơ kiểm sát phải được quản lý chặt chẽ theo đúng quy định của Nhà nước và của ngành Kiểm sát về quản lý, lưu trữ tài liệu.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên nghiên cứu hồ sơ phải báo cáo kết quả nghiên cứu với Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện.
Nội dung báo cáo án phải thể hiện bằng văn bản có chữ ký và ghi rõ họ tên, trong đó phải thể hiện rõ: yêu cầu của người khởi kiện, các tài liệu chứng cứ do người khởi kiện xuất trình; quan điểm của người bị kiện, các tài liệu chứng cứ do người bị kiện xuất trình; quan điểm và các tài liệu chứng cứ do người cỏ quyền lợi nghĩa vụ liên quan xuất trình (nếu có); các tài liệu, chứng cứ do Tòa án tiến hành xác minh, thu thập; các tài liệu, chứng cứ do Viện kiểm sát tự thu thập, yêu cầu cung cấp; nội dung các quyết định giải quyết vụ án của Tòa án ở từng thủ tục tố tụng, nội dung quyết định kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm (Quan điểm, đề xuất của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên ở từng thủ tục tố tụng được quy định tại Chương III Thông tư liên tịch số 03/2012).
Ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện phải được ghi chép đầy đủ; Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện ký và ghi rõ họ tên dưới mỗi bản báo cáo kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên, văn bản này được lưu hồ sơ kiểm sát.
Viện kiểm sát các cấp phải quản lý chặt chẽ hoạt động của mình trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh quản lý tình hình và kết quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quản lý tình hình và kết quả hoạt động của toàn ngành.
Chế độ sổ sách, biểu mẫu tiêu chí thống kê vụ án hành chính phải tuân theo quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 19. Chế độ báo cáo, thỉnh thị
Chế độ báo cáo thỉnh thị thực hiện đúng theo Quy chế về chế độ báo cáo thông tin của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Văn bản báo cáo thỉnh thị hoặc đề nghị kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới phải do Lãnh đạo Viện ký.
Việc trả lời thỉnh thị của Viện kiểm sát cấp trên phải kịp thời và do Lãnh đạo đơn vị ký.
Đối với những trường hợp báo cáo đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của các Viện kiểm sát địa phương và các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, trong thời hạn 03 tháng đối với vụ án phức tạp hoặc có trở ngại khách quan thì thời nạn không quá 06 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án do Tòa án lập kèm công văn đề nghị, Viện kiểm sát cấp trên phải trả lời về việc có kháng nghị hay không. Hết thời hạn nói trên nếu chưa trả lời phải thông báo rõ lý do.
Điều 20. Chế độ thông báo, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ
Định kỳ 06 tháng, 01 năm hoặc khi cần thiết Viện kiểm sát cấp trên ra thông báo nghiệp vụ về hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính để Viện kiểm sát cấp dưới rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiệp vụ.
Viện kiểm sát cấp trên tăng cường tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, xây dựng các chuyên đề và các văn bản nghiệp vụ nhằm nâng cao trình độ, nhận thức cho Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên làm công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính trong toàn ngành.
Viện kiểm sát cấp trên tổ chức kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với Viện kiểm sát cấp dưới về thực hiện nhiệm vụ công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính để hướng dẫn, chỉ đạo, rút kinh nghiệm về công tác nghiệp vụ cho Viện kiểm sát được kiểm tra và toàn ngành. Hoạt động kiểm tra của Viện kiểm sát cấp trên được thực hiện đúng theo quy chế về kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Điều 22. Chế độ bảo vệ bí mật tài liệu
Viện kiểm sát các cấp phải quản lý chặt chẽ hồ sơ vụ án hành chính, hồ sơ kiểm sát và các tài liệu liên quan. Việc giao và nhận hồ sơ trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án phải lập biên bản ghi rõ số bút lục có trong hồ sơ, có chữ ký của bên giao, bên nhận.
Người được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án không được tiết lộ thông tin cho người không được giao nhiệm vụ, không được tiết lộ thông tin hoặc tư vấn cho đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án. Ý kiến chỉ đạo việc giải quyết vụ án hành chính của Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo Viện phải được giữ bí mật. Các văn bản chỉ đạo nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp trên hoặc Lãnh đạo trực tiếp được lưu ở hồ sơ kiểm sát, không đưa vào hồ sơ vụ án do Tòa án lập.
Điều 23. Chấp hành kỷ luật nghiệp vụ
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên Viện kiêm sát nhân dân các cấp, thủ trưởng các đơn vị nghiệp vụ phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về kỷ luật nghiệp vụ của ngành; nếu có hành vi vi phạm thì tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Quy chế công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính được thực hiện thống nhất trong toàn ngành. Viện kiểm sát nhân dân các cấp tổ chức nghiên cứu và triển khai thực hiện nghiêm túc Quy chế này.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương có kế hoạch bồi dưỡng, bố trí cán bộ, tăng cường cơ sở vật chất, kiện toàn tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực khâu công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính theo quy định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Thủ trưởng các đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình có nhiệm vụ tổ chức thực hiện và hướng dẫn, theo dõi việc thực hiện đúng Quy chế nhằm góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành.
Quy chế này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/12/2012, thay thế phần quy định về công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính trong Quy chế nghiệp vụ về công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, lao động, kinh tế và phá sản doanh nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 56/QĐ-V12 ngày 22/12/1999 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Việc sửa đổi, bổ sung Quy chế do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định.
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây