234057

Báo cáo 362/BC-CP năm 2012 việc thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải do Chính phủ ban hành

234057
LawNet .vn

Báo cáo 362/BC-CP năm 2012 việc thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải do Chính phủ ban hành

Số hiệu: 362/BC-CP Loại văn bản: Báo cáo
Nơi ban hành: Chính phủ Người ký: Đinh La Thăng
Ngày ban hành: 28/12/2012 Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Tình trạng: Đã biết
Số hiệu: 362/BC-CP
Loại văn bản: Báo cáo
Nơi ban hành: Chính phủ
Người ký: Đinh La Thăng
Ngày ban hành: 28/12/2012
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày công báo: Đang cập nhật
Số công báo: Đang cập nhật
Tình trạng: Đã biết

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 362/BC-CP

Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2012

 

BÁO CÁO

VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG VẬN TẢI

Kính gửi: Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính nói riêng là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước, đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm. Trong những năm qua, để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông vận tải, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ, trong đó có việc tăng cường công tác xử phạt vi phạm hành chính. Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội việc thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTVT như sau:

I. VIỆC BAN HÀNH CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG VẬN TẢI

1. Các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải, bao gồm:

- Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 2/4/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (thay thế Nghị định số 146/2007/NĐ-CP).

- Nghị định số 33/2011/NĐ-CP ngày 16/5/2011 và Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP.

- Nghị định số 44/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải đường sắt.

- Nghị định số 60/2011/NĐ-CP ngày 20/7/2011 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.

- Nghị định số 156/2007/NĐ-CP ngày 19/10/2007 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 09/2005/NĐ-CP và Nghị định số 44/2006/NĐ-CP.

- Nghị định số 48/2011/NĐ-CP ngày 21/6/2011 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải (thay thế Nghị định số 62/2006/NĐ- CP).

- Nghị định số 137/2004/NĐ-CP ngày 21/6/2004 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.

- Nghị định số 60/2010/NĐ-CP ngày 3/6/2010 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng (thay thế Nghị định số 91/2007/NĐ-CP).

2. Đánh giá

- Nhìn chung, trong thời gian qua công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTVT được quan tâm đúng mức đã bảo đảm tính đồng bộ, kịp thời và nâng cao chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; các văn bản được ban hành bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, có tính răn đe đối với người vi phạm, nhiều nội dung đã được quy định cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, với diễn biến ngày càng phức tạp của tai nạn giao thông, thái độ chống đối người thi hành công vụ, tốc độ gia tăng nhanh của phương tiện nên một số quy định về xử phạt vi phạm hành chính đã bộc lộ hạn chế, không còn phù hợp, mức chế tài xử phạt còn thấp đối với một số hành vi vi phạm nguy hiểm; việc phân định thẩm quyền xử phạt, xử lý vi phạm hành chính còn chồng chéo, thiếu rõ ràng làm giảm hiệu quả xử lý vi phạm hành chính.

- Sau khi các văn bản được ban hành, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành chủ động và phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức các hội nghị, hội thảo để tập huấn, quán triệt và giới thiệu rộng rãi cho người tham gia giao thông biết các nội dung, quy định trong các văn bản, qua đó từng bước góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông.

Trong những năm qua, đặc biệt từ cuối năm 2010 đến nay, các Bộ, UBND đã có nhiều hoạt động cụ thể triển khai thực hiện công tác này thông qua hàng loạt các biện pháp mang tính vĩ mô và vi mô. Nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Quyết định, Chương trình, Kế hoạch có liên quan đến công tác này đã được các cấp từ trung ương đến địa phương ban hành; hình thức tuyên truyền, phổ biến đa dạng, phong phú được triển khai để phù hợp với từng điều kiện, đối tượng cụ thể; công tác tuyên truyền, phổ biến cũng hướng đến nhiều đối tượng như cán bộ, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên; người sử dụng lao động, người lao động trong các doanh nghiệp và người tham gia giao thông...

Tuy nhiên, trong thực tế, các hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật về an toàn giao thông còn gặp nhiều khó khăn, nguồn lực cho hoạt động này còn hạn chế. Trong khi đó, địa bàn cũng như đối tượng cần được phổ biến rất khác nhau. Công tác tuyên truyền chưa duy trì thường xuyên, liên tục. Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật về trật tự an toàn giao thông nhiều nơi còn mang tính hình thức, thiếu chuyên nghiệp, chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng được tuyên truyền nên hiệu quả còn hạn chế; công tác giáo dục an toàn giao thông, đặc biệt là cho thế hệ trẻ, học sinh các cấp học chưa đạt kết quả như mong đợi, chưa hình thành được văn hóa giao thông, đạo đức giao thông trong cộng đồng xã hội.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG VẬN TẢI

 1. Lĩnh vực đường bộ

a) Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường bộ, các loại vi phạm phổ biến

- Nhóm hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ: đi không đúng phần đường, lấn đường, tránh, vượt trái quy định; vi phạm quy định về tốc độ; dừng đỗ xe trái quy định; không chấp hành biển báo hiệu; chở quá số người quy định, chở quá tải trọng; người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy không đội mũ bảo hiểm. Đây là nhóm hành vi phạm bị phát hiện và xử lý nhiều nhất.

- Các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ: phần lớn vi phạm là hành vi điều khiển xe không có giấy phép lái xe hoặc có giấy phép lái xe nhưng không phù hợp.

-  Đối với hành vi vi phạm quy định về nồng độ cồn: mặc dù tình trạng lái xe sử dụng rượu bia quá nồng độ quy định còn phổ biến nhưng việc phát hiện và xử phạt còn thấp. Năm 2011 phát hiện và xử lý hơn 70.000 trường hợp vi phạm, tăng hơn 2,3 lần so với năm 2010 (riêng trong tháng An toàn giao thông, tháng 9/2011 trên toàn quốc tập trung cao điểm xử lý vi phạm quy định về nồng độ cồn đã phát hiện, xử lý 12.102 trường hợp vi phạm).

- Các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia giao thông đường bộ: chủ yếu là các hành vi thay đổi kết cấu thiết kế phương tiện trái phép; không đăng kiểm khi hết hạn; đưa phương tiện không đủ điều kiện, không bảo đảm an toàn giao thông vào lưu hành.

- Các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ: chủ yếu là các hành vi lấn chiếm, xây dựng, sử dụng trái phép hành lang an toàn giao thông đường bộ, san lấp, mở đường nhánh đấu nối trái phép vào đường chính, thi công công trình trong phạm vi đất dành cho đường bộ không có giấy phép thi công, không đảm bảo các điều kiện an toàn khi thi công trên đường bộ đang khai thác, vi phạm quy định về tải trọng cầu, đường bộ (trong năm 2011 Thanh tra Tổng cục Đường bộ VN đã phát hiện xử lý hơn 5.000 trường hợp vi phạm); lấn chiếm lòng đường, vỉa hè làm nơi bày bán hàng hóa, trông giữ phương tiện trái phép (hành vi này phổ biến ở các thành phố lớn, riêng Hà Nội trong năm 2011 và 2 tháng đầu năm 2012 đã phát hiện và xử lý hơn 20.000 trường hợp vi phạm).

- Vi phạm về an toàn vận tải: tập trung vào các vi phạm về hoạt động kinh doanh vận tải như: xe khách dừng, đón, trả khách không đúng nơi quy định; chở quá số người quy định; xe ô tô chở hàng quá tải trọng thiết kế của xe, quá tải trọng cầu, đường bộ; xe ô tô chở hàng rời, vật liệu rời không che phủ bạt hoặc có che phủ bạt nhưng vẫn để rơi vãi.

- Tình trạng tụ tập, gây rối trật tự công cộng, đi mô tô, xe máy tốc độ cao, lạng lách và đua xe trái phép diễn ra nhiều tại một số đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Những năm trước đây, đua xe trái phép có tổ chức, có quy mô, nhưng những năm gần đây, đua xe thường diễn ra tự phát, một nhóm 5 - 7 xe rú ga, có nhóm tụ tập đến hàng trăm xe dàn hàng ngang, lạng lách, đánh võng và các xe khác đua theo, gây mất trật tự an toàn giao thông nhất là những ngày diễn ra các sự kiện thể thao, bóng đá có đội tuyển Việt Nam tham gia. Lực lượng công an đã triển khai nhiều phương án chốt chặn và đã bắt giữ hàng nghìn trường hợp vi phạm, lập hồ sơ thông báo về phường, xã để giáo dục, quản lý, khởi tố một số trường hợp gây rối trật tự công cộng và đua xe trái phép.

- Tình trạng chống lại lực lượng làm nhiệm vụ bảo đảm trật tự an toàn giao thông trong những năm gần đây diễn biến hết sức phức tạp, đã xảy ra 56 vụ làm 18 đồng chí cảnh sát bị thương, đã bắt 63 đối tượng giao cho cơ quan điều tra xử lý. Riêng Hà Nội xảy ra 27 vụ (chiếm 48,2% trong tổng số vụ xảy ra trên toàn quốc), trong đó có 02 vụ cố ý gây thương tích.

- Tình trạng vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ là nguyên nhân chính gây ra tai nạn giao thông, đồng thời cũng là một trong những yếu tố tạo nên tình trạng ùn tắc giao thông tại các thành phố. Theo số liệu của Ủy ban ATGTQG, năm 2011, tai nạn giao thông đường bộ chiếm 98,2% về số vụ, 96% số người chết, 98,8% số người bị thương hàng năm trên cả nước, ngoài ra hàng năm còn gây thiệt hại về phương tiện, tài sản, hàng hóa hàng ngàn tỷ đồng.

Những năm gần đây, tình hình ùn tắc giao thông diễn biến hết sức phức tạp, nhất là tại các thành phố lớn (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh) và các tuyến quốc lộ trọng điểm (QL 1, QL 5), tuyến quốc lộ độc đạo (QL 3, QL 6, QL 18). Tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, ùn tắc xảy ra thường xuyên, nhất là giờ cao điểm; ngoài giờ cao điểm thì xảy ra tình trạng ùn ứ giao thông, tuy chưa đến mức độ tắc nghẽn giao thông nhưng phương tiện dồn ứ nhiều và di chuyển rất chậm (Hiện Hà Nội có 78 điểm, TP. Hồ Chi Minh có 120 điểm có nguy cơ thường xuyên xảy ra ùn tắc giao thông), số vụ ùn tắc giao thông trên địa bàn Hà Nội chiếm 22.1% tổng số vụ ùn tắc giao thông trên cả nước, TP. Hồ Chi Minh chiếm 17%. Nguyên nhân chủ yếu tại các đô thị là do tai nạn giao thông (chiếm 44%), lưu lượng phương tiện đông (chiếm 23%), xe hỏng (chiếm 19%)... Tại các tuyến quốc lộ do lưu lượng phương tiện tham gia giao thông lớn, nhiều tuyến đường độc đạo, không có đường tránh nên khi xảy ra tai nạn giao thông hoặc sự cố trên đường giao thông không có phương tiện cứu hộ (đối với các phương tiện vận tải lớn) hoặc phương tiện cứu hộ không đến được địa điểm cứu hộ; ý thức chấp hành của người tham gia giao thông kém, người tham gia giao thông hoạt động theo nguyên tắc "dòng nước chảy" khi xảy ra ùn ứ giao thông, các xe đua nhau chen lấn, ken vào các chỗ hở, không nhường đường, thậm chí đi lên cả vỉa hè... làm cho tình hình ùn tắc càng trở nên phức tạp.

b) Việc áp dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ

Số liệu thống kê vi phạm hành chính vẫn ngày càng gia tăng tỷ lệ thuận với tốc độ gia tăng của phương tiện và người tham gia giao thông. Với tốc độ gia tăng phương tiện giao thông ngày càng nhanh, lực lượng cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ còn hạn chế thì việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính là rất cần thiết, hỗ trợ hiệu quả cho công tác tác này để vừa bảo đảm tính chính xác, kịp thời, cải cách thủ tục hành chính, vừa bảo đảm tính công khai, minh bạch.

Thực hiện quy định của Nghị định số 91/2009/NĐ-CP ngày 21/10/2009 của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, hiện nay, các phương tiện kinh doanh vận tải hành khách và hàng hóa đang thực hiện lắp đặt thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô theo lộ trình. Việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình là hình thức hỗ trợ hiệu quả cho lực lượng tuần tra, kiểm soát về an toàn giao thông trong việc kiểm soát, xử lý các hành vi vi phạm của người lái xe như chạy quá tốc độ, quá thời gian quy định (Luật Giao thông đường bộ quy định thời gian làm việc của người lái xe ô tô không được quá 10 giờ trong một ngày và không được lái xe liên tục quá 4 giờ).

Bộ Giao thông vận tải cũng đã hoàn thiện phần mềm cơ sở dữ liệu quản lý Giấy phép lái xe thống nhất trên toàn quốc. Đây là một bước tiến lớn trong việc ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác quản lý nhà nước, có tác dụng đặc biệt đối với công tác xử phạt vi phạm hành chính, hạn chế được hành vi làm giả Giấy phép lái xe sau khi bị tịch thu do vi phạm hành chính. Việc sử dụng phần mềm và cấp Giấy phép lái xe mới được bắt đầu triển khai thực hiện từ cuối tháng 4/2012.

Đối với ngành công an, trong thời gian qua, lực lượng Cảnh sát giao thông đường bộ đã tập trung sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện, kiểm soát và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông, trong đó các hành vi vi phạm là nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông được phát hiện qua máy đo tốc độ, camera giám sát, máy ảnh, cân trọng tải, máy đo nồng độ cồn... Bộ Công an chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ có kế hoạch phối hợp với cơ quan đăng kiểm, sử dụng các thiết bị chuyên ngành để kiểm tra, xử lý chuyên đề xe vi phạm quy định về tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường; đối với các trường hợp vi phạm khi phát hiện đã đình chỉ và xử lý nghiêm, yêu cầu khắc phục, bảo đảm an toàn mới tiếp tục lưu hành. Đã tổ chức triển khai Dự án thí điểm xây dựng Hệ thống giám sát trật tự an toàn giao thông tuyến QL 1A đoạn Pháp Vân - Ninh Bình, triển khai đồng bộ từ lắp đặt hệ thống camera, máy đo tốc độ trên tuyến, truyền hình ảnh phương tiện vi phạm về Trung tâm chỉ huy để giám sát, trích xuất hình ảnh phương tiện vi phạm và dừng phương tiện để kiểm soát, xử lý. Từ năm 2009- 2011 đã lập biên bản xử lý 28.324 trường hợp, ra quyết định xử phạt và nộp Kho bạc nhà nước trên 14,855 tỷ đồng, tước quyền sử dụng GPLX 411 trường hợp, tạm giữ 25 phương tiện. Phân tích trong 24.297 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông thì chạy quá tốc độ 14.360 trường hợp (59%), phần đường, làn đường 9.189 trường hợp (37,8%), không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông 748 trường hợp (3,2%).

Việc ứng dụng phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đã tạo điều kiện cho công tác tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông chuyển sang giai đoạn hiện đại hóa. Khi áp dụng thành công hệ thống giám sát và sử dụng các thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ sẽ làm thay đổi căn bản phương thức hoạt động tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông và việc bố trí cán bộ, chiến sỹ làm nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát giao thông, góp phần xây dựng lực lượng Cảnh sát giao thông chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; đồng thời tác động mạnh vào ý thức tự giác của người tham gia giao thông, nhất là người lái xe ô tô, góp phần tạo chuyển biến tốt tình hình trật tự an toàn giao thông, kiềm chế, làm giảm tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông.

Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, việc đầu tư cũng như triển khai nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác xử phạt VPHC về giao thông đường bộ còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi thực tế, sự phát triển của xã hội.

c) Tổ chức thực hiện

- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ:

+ Chủ tịch UBND các cấp.

+ Lực lượng công an.

+ Thanh tra đường bộ.

- Công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ được coi là một trong các biện pháp hữu hiệu quan trọng hàng đầu nhằm thiết lập lại trật tự kỷ cương an toàn giao thông, đồng thời tác dụng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật giao thông của người tham gia giao thông. Bộ Công an đã ban hành các Thông tư quy định về hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm của Cảnh sát giao thông, quy trình tuần tra, kiểm soát giao thông; chú trọng nghiên cứu đổi mới một số chiến thuật cơ bản để giám sát hành vi của người tham gia giao thông như kiểm soát tốc độ, vi phạm đèn tín hiệu, phần đường, làn đường... khá thành công bằng các hình thức kết hợp hóa trang giám sát và xử lý công khai, sử dụng thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (máy đo tốc độ, camera). Trong hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính, Bộ Công an đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương mở các đợt hoạt động cao điểm tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; đã huy động lực lượng, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ tập trung chỉ huy thực hiện trong phạm vi toàn quốc, chọn một tuyến hoặc đoạn tuyến quốc lộ trọng điểm hay một địa bàn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; mở các chiến dịch tổng kiểm tra phương tiện giao thông hoặc tập trung kiểm tra một loại phương tiện như ô tô khách hoặc xe tải, mô tô... Trong hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử phạt vi phạm hành chính thì lực lượng Cảnh sát giao thông đóng vai trò chính, tuy nhiên, do biên chế thiếu, không đủ quán xuyến được địa bàn nên Bộ Công an đã chỉ đạo các địa phương huy động lực lượng cảnh sát khác như cảnh sát cơ động, Công an xã theo quy định tại Nghi định số 27/2010/NĐ-CP.

Ngay từ năm 2005, vấn đề tăng cường đầu tư cho lực lượng xử lý vi phạm hành chính để nâng cao hiệu lực xử lý vi phạm hành chính đã được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ. Ngày 25/12/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 334/2005/QĐ-TTCP về việc phê duyệt đề án tăng cường biên chế, trang thiết bị và đào tạo cho lực lượng cảnh sát giao thông đường bộ (bao gồm 3 dự án chính, Dự án 1: tổ chức hệ thống kiểm soát giao thông đường bộ; xây dựng trạm cảnh sát giao thông trên quốc lộ trọng điểm, trạm cảnh sát giao thông cửa ô ở các thành phố trực thuộc Trung ương. Dự án 2: tăng cường biên chế, đào tạo cho lực lượng Cảnh sát giao thông đường bộ. Dự án 3: tăng cường phương tiện giao thông, thiết bị kỹ thuật, hệ thống thông tin chỉ huy phục vụ công tác giữ gìn trật tự an toàn giao thông của lực lượng Cảnh sát giao thông đường bộ. Tổng kinh phí thực hiện là 1.083 tỷ đồng). Đến năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 321/QĐ-BGTVT ngày 5/3/2010 về việc phê duyệt đề án tăng cường biên chế, trang thiết bị cho lực lượng thanh tra giao thông vận tải (tổng kinh phí thực hiện là 514 tỷ đồng).

Nhờ đó, hiệu quả của công tác tuần tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý vi phạm của các lực lượng chức năng trong thời gian qua đã được cải thiện, không ngừng nâng cao và đạt được một số kết quả đáng khích lệ, đặc biệt trong hơn 3 năm gần đây, sự nỗ lực của lực lượng kiểm tra, xử phạt đã góp phần đáng kể trong việc đạt được mục tiêu kiềm chế và kéo giảm TNGT.

Theo quy định hiện hành, Thanh tra GTVT không có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Xử phạt hành vi vi phạm về kỹ thuật hạ tầng giao thông đô thị, quản lý lòng đường, vỉa hè đô thị là trách nhiệm của Thanh tra xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng, Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27/2/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng. Do đó, thành phố Hồ Chí Minh phải thành lập Tổ kiểm tra liên ngành giữa Thanh tra xây dựng và Thanh tra GTVT (Quyết định số 5912/QĐ-UBND ngày 28/12/2010) để giải quyết bất cập này.

Bên cạnh đó, liên quan đến việc cưỡng chế, xử lý vi phạm lấn chiếm, sử dụng trái phép hành lang an toàn giao thông, lấn chiếm đất dành cho đường bộ (liên quan đến quản lý đất đai) thì theo quy định của Luật Đất đai thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của Ủy ban nhân dân các cấp.

Đối với hoạt động của Thanh tra Tổng cục Đường bộ:

- Trước ngày 01/6/2009 (thời điểm Nghị định 31/2009/NĐ-CP ngày 01/4/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 về quản lý và sử dụng con dấu có hiệu lực):

Các thanh tra viên phát hiện vụ việc vi phạm hành chính đồng thời lập Biên bản VPHC trình cấp có thẩm quyền ra Quyết định xử phạt VPHC và đóng dấu tại chỗ (Chánh thanh tra ủy quyền xử phạt cho các Phó Chánh thanh tra; con dấu của Thanh tra Cục Đường bộ VN có ký hiệu riêng được khắc tại 04 Ban thanh tra đường bộ khu vực).

- Từ ngày 01/6/2009 đến 01/7/2011 (ngày Luật Thanh tra 2010 có hiệu lực):

+ Các Thanh tra viên thuộc các Ban, Đội Thanh tra phát hiện, lập Biên bản VPHC và ra Quyết định xử phạt VPHC đối với những hành vi vi phạm có mức xử phạt đến 500.000 đ.

+ Nếu mức phạt vượt quá 500.000 đ, các Đội Thanh tra đường bộ sẽ Fax Biên bản VPHC về Ban để Ban Thanh tra đường bộ xác định tính pháp lý của Biên bản VPHC được lập đồng thời Ban dự thảo Quyết định xử phạt VPHC trong máy vi tính và Mail về Thanh tra Tổng cục.

+ Trên cơ sở dự thảo Quyết định xử phạt VPHC của Ban Thanh tra đường bộ gửi qua đường Mail, Thanh tra Tổng cục sẽ ra Quyết định xử phạt VPHC (Chánh hoặc Phó Chánh Thanh tra ký và đóng dấu Thanh tra Tổng cục) sau đó sẽ gửi Quyết định XPVPHC bằng chuyển Fax nhanh theo đường Bưu điện đến các Ban và Đội Thanh tra đường bộ. Riêng Ban Thanh tra đường bộ  IV vì có con dấu thứ hai của Thanh tra Tổng cục do thực hiện công tác xử phạt nhiều của Trạm cân xe Dầu Giây (con dấu thứ hai của Thanh tra Tổng cục được cấp và sử dụng theo NĐ 31/2009/NĐ-CP ngày 01/4/2009 của Chính phủ về quản lý và sử dụng con dấu: mỗi tổ chức được khắc tối đa hai con dấu) nhưng ký Quyết định XPVPHC vẫn phải là cấp có thẩm quyền: Phó, Chánh Thanh tra Tổng cục.

+ Đối với các hành vi vi phạm có áp dụng hình phạt bổ sung hình thức tước Giấy phép lái xe (GPLX), Thanh tra Tổng cục có văn bản gửi công văn đến cơ quan cấp GPLX để phối hợp thực hiện.

- Từ ngày 01/7/2011 đến nay (thời điểm Luật Thanh tra 2010 có hiệu lực): Thực hiện nội dung Công điện 26/BGTVT-CĐ ngày 01/7/2011 của Bộ Giao thông vận tải. Thanh tra Tổng cục Đường bộ VN chỉ đạo các thanh tra viên của các Đội Thanh tra đường bộ thuộc các Ban Thanh tra đường bộ khu vực khi phát hiện các hành vi vi phạm đối với lĩnh vực GTVT đường bộ kịp thời chuyển hồ sơ vi phạm cho Thanh tra các Sở GTVT hoặc chính quyền địa phương để cấp có thẩm quyền ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

d) Sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong quản lý, xử phạt:

+ Tổng cục Đường bộ VN chỉ đạo Thanh tra Tổng cục (có chỉ đạo cụ thể bằng văn bản tới các Ban, Đội Thanh tra đường bộ khu vực) phải thường xuyên phối hợp chính quyền địa phương, các lực lượng khác trong nhiệm vụ thực hiện việc xử phạt theo thẩm quyền; lập kế hoạch, cử các thành viên vào Ban An toàn giao thông của địa phương; thực hiện công tác xử lý người điều khiển phương tiện vi phạm tại Trạm cân xe Dầu Giây (Đồng Nai) luôn có các lực lượng tham gia phối hợp (Công an, Quân đội và Thanh tra Sở GTVT Đồng Nai hoạt động trên cơ sở xây dựng quy chế tạm thời hoạt động giữa các lực lượng được ký giữa Bộ GTVT và UBND tỉnh Đồng Nai).

+ Ngày 25/01/2011, Tổng cục Đường bộ VN và Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội đã ký quy chế phối hợp 137/QC-LN trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ với nội dung quy định trách nhiệm cụ thể của mỗi bên trong việc phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các nhiệm vụ có liên quan về trật tự an toàn giao thông đường bộ, cụ thể như: bảo vệ công trình đường bộ và hành lang an toàn giao thông đường bộ; bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên các tuyến quốc lộ... Hai Tổng cục đã thống nhất triển khai Quy chế phối hợp 137/QC-LN từ Tổng cục đến địa phương; thành lập Ban chỉ đạo các cấp: cấp Tổng cục (trung ương) cấp Sở (địa phương) thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo điều hành hoạt động phối hợp công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn, tuyến đường quản lý. Theo kết quả đánh giá bước đầu việc thực hiện quy chế phối hợp giữa hai lực lượng đạt kết quả tốt, mang lại yếu tố tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ.

2. Lĩnh vực đường thủy nội địa

a) Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường thủy nội địa, các loại vi phạm phổ biến

- Vi phạm của người điều khiển phương tiện: vi phạm quy tắc giao thông, chở quá trọng tải cho phép; không đủ bằng, chứng chỉ chuyên môn; phương tiện không đăng ký, đăng kiểm; không đủ trang thiết bị theo quy định; đáng chú ý nhất vẫn là tình trạng phương tiện thủy hết hạn đăng kiểm lần đầu nhưng không đến kiểm định theo quy định (chiếm trên 70%).

- Vi phạm của chủ cảng, bến: không chấp hành quy định về hoạt động cảng, bến thủy nội địa, nhất là vi phạm của bến khách ngang sông. Hoạt động của các bến bãi tập kết, khai thác cát, sỏi trái phép trên đường thủy nội địa tuy đã được lực lượng Cảnh sát đường thủy, Thanh tra giao thông đường thủy phối hợp với lực lượng chức năng và chính quyền địa phương tăng cường kiểm tra, xử lý và chấn chỉnh nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt để và vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, gây tác hại khó lường: làm lệch dòng chảy, sạt lở đê điều, nhà ở hai bên sông, gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường; làm thất thu các khoản thuế, lệ phí; nghiêm trọng hơn là gây mất an toàn đối với người dân sinh sống dọc ven đường thủy và hoạt động của người và phương tiện tham gia giao thông trên đường thủy nội địa.

Vi phạm luồng, hành lang bảo vệ luồng chạy tàu, thuyền do tình trạng họp chợ, khai thác, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản không đúng với quy định, làm cản trở hoạt động giao thông vận tải đường thủy nội địa; sử dụng chất nổ, xung điện để đánh bắt thủy sản trên các tuyến giao thông đường thủy tiếp tục diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương.

b) Tổ chức thực hiện

- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa:

+ Chủ tịch UBND các cấp.

+ Lực lượng công an.

+ Thanh tra giao thông đường thủy nội địa.

+ Giám đốc Cảng vụ đường thủy nội địa.

+ Bộ đội biên phòng.

+ Cảnh sát biển.

- Trong thực tế hiện nay, việc thực hiện chức năng này chủ yếu tập trung ở lực lượng Cảnh sát đường thủy và Thanh tra GTVT. Trên đường thủy nội địa, không chỉ có hoạt động giao thông vận tải mà còn có nhiều hoạt động liên quan đến trách nhiệm quản lý của chính quyền các cấp, các ngành chức năng như Tài nguyên và Môi trường, Thủy sản, Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quốc phòng... song hoạt động tuần tra, kiểm soát của lực lượng Cảnh sát đường thủy còn đơn điệu, chưa thực sự chủ động phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, đồng bộ với các lực lượng chức năng để có biện pháp thống nhất giải quyết các tình hình phức tạp liên quan đến trật tự an toàn giao thông. Lực lượng Cảnh sát đường thủy có chức năng phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên đường thủy nhưng chưa thực sự chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng trên địa bàn như Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Quản lý thị trường, Thuế vụ, Kiểm lâm, Kiểm ngư... Cùng với những khó khăn, bất cập mang tính chủ quan của lực lượng công an, còn có những khó khăn, bất cập mang tính khách quan đã và đang tác động đến hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm như chưa có bến bãi tạm giữ phương tiện hoặc bến bãi tập kết hàng hóa khi hạ tải nên lực lượng có thẩm quyền không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế mà thực tế chỉ "phạt cho tồn tại" dẫn đến hiệu quả xử lý vi phạm hành chính để giáo dục, răn đe rất thấp.

- Trước khi Luật Thanh tra năm 2010 có hiệu lực, những trường hợp vi phạm thuộc thẩm quyền của Thanh tra viên thì việc xử phạt được Thanh tra viên thực hiện, ghi biên lai do Kho bạc nhà nước ủy quyền; trường hợp vượt thẩm quyền của Thanh tra viên thì Thanh tra viên báo cáo cấp thẩm quyền và thực hiện theo chỉ đạo. Sau khi Luật Thanh tra có hiệu lực, lực lượng Thanh tra Cục Đường thủy nội địa thực hiện công tác thanh, kiểm tra, khi xử phạt thì lập hồ sơ chuyển Thanh tra Sở GTVT địa phương thực hiện xử phạt.

c) Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa phương trong quản lý, xử phạt

Ngoài việc chủ động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, Thanh tra Cục và Cảng vụ đường thủy nội địa còn phối hợp với Cảnh sát đường thủy, Đăng kiểm và chính quyền địa phương thực hiện thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm; phát hiện vi phạm thuộc thẩm quyền của lực lượng nào thì lực lượng đó lập biên bản, ra quyết định xử phạt;

3. Lĩnh vực đường sắt

a) Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường sắt, các vi phạm phổ biến

Theo số liệu thống kê, tình hình vi phạm trật tự về hành lang an toàn giao thông đường sắt trên các tuyến đường sắt thuộc 33 tỉnh, thành phố có đường sắt đi qua là rất lớn. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong thời gian qua chủ yếu tập trung vào nhóm đối tượng là những cá nhân sinh sống dọc hai bên đường sắt, có các hành vi vi phạm về hành lang, phạm vi bảo vệ công trình đường sắt và những người không chấp hành quy tắc giao thông đường sắt tại các đường ngang. Đây là nhóm đối tượng có hành vi vi phạm gây ra khoảng 90% số vụ tai nạn giao thông đường sắt.

Các loại vi phạm phổ biến là: vi phạm về kết cấu hạ tầng đường sắt; vi phạm về tín hiệu, quy tắc giao thông đường sắt và bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường sắt; vi phạm có liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn giao thông vận tải đường sắt; vi phạm về phương tiện giao thông đường sắt; vi phạm quy định đối với nhân viên đường sắt; vi phạm về kinh doanh đường sắt.

b) Tổ chức thực hiện

- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường sắt:

+ Chủ tịch UBND các cấp.

+ Lực lượng công an.

+ Thanh tra giao thông đường sắt.

- Thực tế từ khi triển khai thực hiện xử phạt VPHC đến nay việc xử phạt VPHC trong lĩnh vực đường sắt hầu hết chỉ do Thanh tra Cục Đường sắt thực hiện, việc xử phạt của lực lượng cảnh sát và chính quyền địa phương trong lĩnh vực đường sắt là rất ít.

4. Lĩnh vực hàng không

a) Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không, các vi phạm phổ biến

- Trong thời gian qua, có nhiều hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng đã xảy ra mà đối tượng vi phạm là nhân viên hàng không, hành khách đi tàu bay, người dân xung quanh cảng hàng không, sân bay, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ hàng không và các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phi hàng không tại cảng hàng không, sân bay. Các hành vi vi phạm phổ biến trong thời gian gần đây như: hành vi gây mất trật tự, kỷ luật trong tàu bay; mở cửa thoát hiểm trên tàu bay trái quy định; cung cấp thông tin sai về việc có bom, mìn...; sử dụng thiết bị an toàn trên tàu bay khi không được phép; hút thuốc ở trên tàu bay hoặc những nơi không được phép; sử dụng các loại thiết bị điện tử, thiết bị thu phát sóng trên tàu bay khi không được phép; nhân viên hàng không không thực hiện đúng quy trình theo quy định... mà nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành pháp luật của một số người chưa cao, sự tò mò của một số hành khách khi đi tàu bay, một số nhân viên hàng không còn sai sót trong khi thực hiện nhiệm vụ,...

- Các hành vi vi phạm xảy ra gây uy hiếp an toàn, an ninh hàng không, ảnh hưởng đến hoạt động bay, gây chậm trễ chuyến bay; gây phiền hà cho hành khách và thiệt hại không nhỏ cho các hãng hàng không.

b) Tổ chức thực hiện

- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không:

+ Chủ tịch UBND các cấp.

+ Lực lượng công an.

+ Thanh tra hàng không.

+ Giám đốc Cảng vụ hàng không.

- Trước ngày 01/7/2011, việc xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện theo trình tự, thủ tục trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Nhưng kể từ ngày 01/7/2011 (ngày Luật thanh tra 2010 có hiệu lực), Chánh Thanh tra hàng không và Thanh tra viên hàng không không có quyền xử phạt vi phạm hành chính nên các vụ việc do Cục Hàng không VN phát hiện và các vụ việc vượt quá thẩm quyền của Cảng vụ hàng không phải chuyển cho Chánh Thanh tra Bộ Giao thông vận tải hoặc Chính quyền địa phương, cơ quan công an xử phạt.

Tuy nhiên, ngày 26/12/2011, Văn phòng Chính phủ có công văn số 9176/VPCP-KTN thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về hoạt động thanh tra chuyên ngành độc lập trong các lĩnh vực hàng hải và hàng không dân dụng theo quy định của Điều ước quốc tế. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Quyết định số 336/QĐ-BGTVT ngày 17/2/2012 quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Hàng hải, Thanh tra Hàng không. Hiện nay, Thanh tra Cục Hàng không tiếp tục hoạt động trên cơ sở Luật Thanh tra, các văn bản hướng dẫn thi hành và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

5. Lĩnh vực hàng hải

a) Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải, các vi phạm phổ biến

- Vi phạm về: thủ tục tàu vào, rời cảng; bố trí định biên an toàn tối thiểu của tàu (chủ yếu là các tàu biển Việt Nam loại nhỏ chạy tuyến nội địa); bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn của thuyền viên; neo đậu, cập cầu, cập mạn, lai dắt; phòng chống cháy nổ; an toàn, an ninh, trật tự vệ sinh; an toàn sinh mạng trên tàu thuyền; tiêu chuẩn kỹ thuật của kết cấu hạ tầng giao thông, hoạt động đăng ký, đăng kiểm, kiểm định phương tiện, thiết bị giao thông vận tải; hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải

b) Tổ chức thực hiện

- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải:

+ Chủ tịch UBND các cấp.

+ Lực lượng công an.

+ Thanh tra hàng hải.

+ Giám đốc Cảng vụ hàng hải.

- Trước ngày 01/7/20112011, việc xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện theo trình tự, thủ tục trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Nhưng kể từ ngày 01/7/2011 (ngày Luật thanh tra 2010 có hiệu lực), Chánh Thanh tra hàng hải và Thanh tra viên hàng hải không có quyền xử phạt vi phạm hành chính nên các vụ việc do Cục Hàng hải VN phát hiện và các vụ việc vượt quá thẩm quyền của Cảng vụ hàng hải phải chuyển cho chính quyền địa phương, cơ quan công an xử phạt.

Tương tự như đối với Thanh tra Cục Hàng không, căn cứ ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải và Quyết định số 336/QĐ- BGTVT ngày 17/2/2012, hiện nay, Thanh tra Cục Hàng hải tiếp tục hoạt động trên cơ sở Luật Thanh tra, các văn bản hướng dẫn thi hành và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Kết quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTVT trong thời gian 3 năm (2009-2011) của các lực lượng có thẩm quyền được nêu tại Phụ lục (kèm theo công văn này).

III. NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ

1. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông chưa duy trì thường xuyên, liên tục, chưa phù hợp với đặc điểm từng loại đối tượng, địa bàn, chưa đến được cơ sở; người dân chưa nhận thức được việc chấp hành pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông vừa là trách nhiệm, đồng thời là quyền lợi thiết thực của mình, nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của bản thân, gia đình và lợi ích chung của toàn xã hội.

- Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người tham gia giao thông chưa cao. Tình trạng chống người thi hành công vụ gây thương vong cho cán bộ chiến sỹ thi hành công vụ diễn biến phức tạp, nhiều đối tượng côn đồ, hung hãn, manh động chống trả quyết liệt người thi hành công vụ.

Lực lượng tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm

- Hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông chưa quán xuyến toàn bộ các tuyến giao thông, có lúc có nơi còn bỏ trống địa bàn. Công tác điều tra cơ bản, nắm tình hình địa bàn chưa được thực hiện đầy đủ, thường xuyên nên chưa xác định đúng đối tượng, hành vi cần tập trung kiểm soát, xử lý.

- Một số cán bộ, chiến sỹ làm nhiệm vụ trực tiếp trình độ, năng lực hạn chế, ngại va chạm, xử lý chưa nghiêm, chưa triệt để đối với các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, một số cán bộ, chiến sỹ trong khi thi hành nhiệm vụ còn tiêu cực, vi phạm quy trình, chế độ công tác; thái độ, lễ tiết, tác phong chưa đúng mực làm ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng và hiệu lực thực thi pháp luật.

- Việc thông báo vi phạm về cơ quan hoặc nơi cư trú của người vi phạm theo quy định tại Thông tư số 38/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ Công an chưa được các đơn vị ở địa phương quan tâm thực hiện kiểm điểm, giáo dục người vi phạm ở nơi cư trú và thông báo phản hồi lại cho đơn vị ra thông báo. Hơn 1 năm sau khi Thông tư số 38/2010/TT-BCA được triển khai, hiệu quả đã không được như mong muốn. Chỉ có 0.01% thông báo được phản hồi. Thống kê ở Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ- đường sắt Công an TP. Hà Nội cho thấy hơn 55.000 thông báo vi phạm được gửi đi nhưng chỉ có 800 trường hợp được phản hồi. Thiếu sự phối hợp là nguyên nhân cơ bản dẫn đến kết quả không mong muốn này.

- Theo Luật Thanh tra, tổ chức thanh tra chuyên ngành của các Tổng cục, Cục thuộc Bộ và Cảng vụ hàng hải không còn tồn tại sau ngày 01 tháng 7 năm 2011 (ngày Luật Thanh tra có hiệu lực). Do đó, hoạt động của lực lượng thanh tra thuộc các tổ chức thanh tra trước đây trực thuộc các Tổng cục, Cục và Cảng vụ nêu trên không còn cơ sở pháp lý để hoạt động.

- Nhiệm vụ chính của Thanh tra viên trước đây khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính là lập biên bản và ra quyết định xử phạt theo thẩm quyền hoặc trình Chánh Thanh tra Cục ra quyết định xử phạt, hiện nay là lập biên bản về vi phạm pháp luật hành chính và kiến nghị hình thức, biện pháp xử phạt để gửi Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở Giao thông vận tải hoặc Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi xảy ra hành vi vi phạm hành chính xem xét, quyết định. Tuy nhiên, việc lập biên bản đối với hành vi vi phạm hành chính cũng không thực hiện được do tổ chức Thanh tra Tổng cục, Cục đã không còn được hoạt động theo Luật Thanh tra.

- Việc phải chuyển lên Thanh tra Bộ hoặc Thanh tra Sở Giao thông vận tải làm cho thủ tục ra quyết định xử phạt phức tạp, thường kéo dài thời gian, mất nhiều thời gian chờ đợi xử lý, gây khó khăn cho đối tượng bị xử phạt và không bảo đảm tính kịp thời, nhanh nhạy của nền hành chính hiện đại vì xử lý vụ việc vi phạm pháp luật hành chính phải qua quá nhiều tầng nấc trung gian.

+ Việc chuyển hồ sơ vi phạm hành chính (VPHC) cho Thanh Tra các Sở để Thanh tra các Sở tổ chức lực lượng kiểm tra hiện trường, thẩm định hồ sơ (có thể mất hàng tuần hoặc hàng tháng) dẫn đến thời hiệu ra quyết định xử phạt đã hết; công trình vi phạm đã đưa vào sử dụng, làm giảm hiệu lực, hiệu quả về công tác xử lý VPHC, giảm tính răn đe thuyết phục đối với các đối tượng vi phạm.

+ Hồ sơ vi phạm chuyển cho chính quyền địa phương các cấp để ra Quyết định xử lý thì chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm. Vì thế, các vụ việc vi phạm còn tồn tại nhiều, đặc biệt là vi phạm hành lang đường bộ. Xảy ra trường hợp có Thanh tra Sở GTVT chỉ tiếp nhận những hồ sơ khi biên bản VPHC lập phải đảm bảo biện pháp chế tài có tạm giữ các giấy tờ liên quan có giá trị pháp lý hoặc tang vật khác nhằm buộc tổ chức, cá nhân phải đến để chấp hành quyết định xử phạt VPHC. Nếu chuyển biên bản VPHC không đáp ứng yêu cầu trên thì Thanh tra Sở không tiếp nhận hồ sơ để xử lý. Đây là một vấn đề vướng mắc, vì hầu hết các trường hợp vi phạm hành lang an toàn đường bộ (xây dựng nhà cửa, lều quán, san lấp mặt bằng...) đều không tạm giữ được các giấy tờ có liên quan.

+ Một số địa phương đã có công văn phúc đáp từ chối việc thực hiện công tác tiếp nhận biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định cưỡng chế các hành vi vi phạm với lý do:

Ngày 12/07/2011, Thanh tra Chính phủ có công văn số 1839/TTCP-PC hướng dẫn thi hành hoạt động Thanh tra chuyên ngành, trong đó có quy định "việc xử phạt vi phạm hành chính đối với các Tổng cục được chuyển về cho Thanh tra Bộ xử lý...”. Như vậy, theo nội dung hướng dẫn trên thì Thanh tra Sở không thụ lý hồ sơ xử lý vi phạm do lực lượng Thanh tra Tổng cục Đường bộ VN chuyển đến.

Một số trường hợp Thanh tra Sở GTVT có văn bản từ chối ra quyết định cưỡng chế với lý do: căn cứ Nghị định số 37/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định các thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC (Điều 7: trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thi hành) và Nghi định số 11/2010/ND-CP, ngày 24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (Điều 41: trách nhiệm của UBND huyện) thì UBND các cấp đều có thẩm quyền xử lý trong lĩnh vực nêu trên; do đó đề nghị các Đội Thanh tra đường bộ làm thủ tục (văn bản đề nghị) gửi UBND cấp huyện ra quyết định cưỡng chế.

+ Đối với đường quốc lộ, đường sắt và tuyến đường thủy nội địa quốc gia thì Luật Giao thông đường bộ, Luật Đường sắt và Luật Giao thông đường thủy nội địa giao Bộ Giao thông vận tải quản lý (không phải địa phương) vì vậy chuyển hồ sơ vi phạm hành chính cho Sở thì họ không nhiệt tình giải quyết, xử lý các trường hợp đó vì Sở không quản lý những đường này.

Tóm lại do những tồn tại khi thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, việc chuyển giao hồ sơ vi phạm cho Thanh tra các sở GTVT và chính quyền địa phương để ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đạt hiệu quả thấp không đạt được mục đích trong công tác bảo vệ công trình giao thông đặc biệt trong công tác bảo vệ hành lang an toàn đường bộ.

+ Từ trước đến nay việc tổ chức cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính rất khó thực hiện, nhất là vi phạm của cá nhân, tổ chức đối với hành lang an toàn đường bộ. Nguyên nhân chính là theo quy định pháp luật hiện hành, thẩm quyền cưỡng chế để tháo dỡ các công trình vi phạm trong hành lang an toàn đường bộ thuộc về chính quyền địa phương. Như vậy việc chuyển hồ sơ vi phạm cho chính quyền địa phương thụ lý và xử lý tiếp thực sự là một công việc khó khăn, còn việc cưỡng chế giải tỏa có thể coi là một việc khó có thể thực hiện được. Đồng thời khi tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính không tạm giữ được những giấy tờ cần thiết để buộc đối tượng vi phạm phải nộp phạt. Việc tổ chức cưỡng chế tháo dỡ tốn kém, phức tạp vì liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị. Như vậy việc giữ gìn hành lang an toàn đường bộ vẫn là bài toán nan giải cho các đơn vị quản lý đường bộ.

- Việc chuyển hồ sơ vi phạm hành chính của Thanh tra Tổng cục, Cục gây sức ép quá tải đối với Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra Sở và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh của địa phương về xử lý vi phạm hành chính.

- Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính chưa có cơ chế đặc thù đối với vận tải hàng hóa nói chung, hàng hóa là thực phẩm tươi sống nói riêng, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông hàng không và hàng hải làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và giao lưu thương mại quốc tế.

- Quy định về việc nộp tiền xử phạt VPHC còn chưa khoa học, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người vi phạm khi thực hiện nghĩa vụ.

- Thẩm quyền xử phạt cao nhất của Giám đốc Cảng vụ hàng không, hàng hải, đường thủy nội địa quá thấp (10.000.000 đồng), trong khi hành vi vi phạm trong lĩnh vực này thường gây thiệt hại quá lớn đối với xã hội. Do đó, đa số các hành vi vi phạm trong lĩnh vực này thường phải chuyển lên Chánh Thanh tra Bộ hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, kéo dài thời gian ra quyết định xử phạt, gây khó khăn cho đối tượng bị xử phạt vì theo nguyên tắc phân định thẩm quyền trong xử phạt vi phạm hành chính thì mức phạt tiền trên 10.000.000 đồng không thuộc thẩm quyền xử phạt của Giám đốc Cảng vụ.

- Hiện nay các Cảng vụ hàng không, hàng hải, đường thủy nội địa được thành lập theo khu vực và được giao nhiệm vụ quản lý một số cảng trong khu vực. Khoảng cách giữa các cảng thuộc quyền quản lý của Cảng vụ khu vực thường cách xa nhau, mất nhiều thời gian đi lại do phương tiện giao thông không thuận lợi hoặc cách trở về địa lý. Tại mỗi cảng có một Đại diện Cảng vụ. Nếu không giao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho Đại diện Cảng vụ thì mọi hành vi vi phạm hành chính tại cảng đó đều phải gửi đến Giám đốc Cảng vụ để ra quyết định xử phạt, do đó, việc xử phạt vi phạm hành chính tại các cảng thường bị kéo dài, gây khó khăn cho đối tượng bị xử phạt và người thực hiện là không phạt được (do hành khách đã lên máy bay để đi về nước khác...).

- Nếu 1 Quyết định xử phạt của Thanh tra viên Bộ GTVT bị kiện thì Chánh Thanh tra Bộ Giao thông vận tải phải giải quyết, việc này sẽ gây áp lực rất lớn cho Chánh Thanh tra Bộ và Bộ trưởng.

- Quy định về trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính của người chỉ huy tàu bay không phù hợp với thực tế hoạt động hàng không dân dụng vì nếu thực hiện có thể gây uy hiếp an toàn, an ninh cho chuyến bay và ảnh hưởng đến hoạt động hàng không dân dụng.

c) Nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ

- Cảnh sát giao thông, cảnh sát trật tự, Thanh tra giao thông là lực lượng nòng cốt, xung kích trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đã được quan tâm tăng biên chế và trang bị phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Tuy nhiên, so với yêu cầu còn thiếu, năng lực hạn chế, phương tiện, thiết bị kỹ thuật chưa đảm bảo, nhất là thiết bị công nghệ tiên tiến, hiện đại được ứng dụng trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông còn hạn chế. Hầu hết Công an các địa phương không có máy đo nồng độ cồn, máy đo tốc độ... Phương tiện của Thanh tra giao thông chủ yếu là mô tô nhưng địa bàn quản lý rộng, không tập trung nên hạn chế việc kiểm soát, phát hiện vi phạm. Một số trường hợp đã được phát hiện, xử phạt nhưng không có điều kiện áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung kèm theo (tạm giữ phương tiện vi phạm, buộc hạ tải, cắt bỏ thành thùng xe tự ý cơi nới...) nên tính răn đe chưa cao. Ngoài ra, nhiều đối tượng chấp hành theo kiểu đối phó và chống người thi hành công vụ gây khó khăn cho công tác xử lý vi phạm

- Công tác xử lý vi phạm còn mang tính thủ công, chưa áp dụng công nghệ tiên tiến, chưa có cơ sở dữ liệu xử lý vi phạm hành chính, chưa xử lý được người vi phạm tái phạm.

- Việc xử phạt gián tiếp thông qua thiết bị quay phim, chụp ảnh đã được lực lượng cảnh sát giao thông triển khai thực hiện, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập do người vi phạm không phải là chủ phương tiện hoặc phương tiện đã chuyển quyền sở hữu nhưng chưa sang tên, đổi chủ.

d) Các vấn đề liên quan khác

- Thuật ngữ “người chứng kiến” không rõ là người chứng kiến vụ việc hay người chứng kiến lập biên bản vi phạm hành chính, do đó gây khó khăn khi áp dụng.

- Việc nộp tiền xử phạt tại chỗ chưa phù hợp với hoạt động hàng không dân dụng vì nhiều trường hợp hành khách đi tàu bay vi phạm hành chính muốn nộp tiền xử phạt vi phạm hành chính để tiếp tục hành trình, nhưng không có cơ chế để thu trực tiếp và người xử lý không thể giữ hành khách ở lại.

- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Tổng cục trưởng, Cục trưởng các Cục, Chánh Thanh tra Hàng không, Chánh Thanh tra hàng hải, công chức thanh tra chuyên ngành chưa được quy định cụ thể, nên việc xử phạt vi phạm hành chính có nhiều vướng mắc, khó khăn.

- Công tác giải quyết xử lý phương tiện tồn động còn chưa được thực hiện thường xuyên liên tục, một phần do người vi phạm khai không đúng tên tuổi, địa chỉ dẫn đến việc tra cứu, xác minh qua nhiều chủ phương tiện gây mất thời gian; chủ phương tiện, người điều khiển không đến giải quyết (mặc dù đã mời nhiều lần). Theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính yêu cầu tối đa trong vòng 60 ngày người có thẩm quyền phải ra quyết định xử lý nhưng vì nhiều nguyên nhân như trên kéo theo việc tạm giữ phương tiện vi phạm vượt quá thời gian quy định. Thủ tục tịch thu thanh lý phương tiện phức tạp nên việc tạm giữ phương tiện cũng bị kéo dài. Chưa có hướng dẫn cụ thể trong việc xử lý, giải quyết đối với các trường hợp xe ba bánh tự đóng do thương binh, người khuyết tật điều khiển vi phạm.

- Việc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại công trình giao thông và hành lang an toàn giao thông gặp rất nhiều khó khăn, đối tượng chủ yếu là người dân lao động, đi kèm với hình thức phạt bổ sung là tháo dỡ nhà cửa, vật kiến trúc xây dựng vi phạm nên người dân thường chống đối và không chấp hành quyết định xử phạt (Ví dụ: tính từ năm 2009 đến nay, lực lượng Thanh tra giao thông Quảng Ngãi đã lập biên bản và ra quyết định xử phạt 471 trường hợp nhưng chỉ có 20 đối tượng chấp hành).

- Các quy định chế tài xử phạt VPHC trong lĩnh vực GTVT tuy đã được nâng cao mức phạt nhưng vẫn chưa thực sự đủ sức giáo dục, răn đe và ngăn chặn các đối tượng vi phạm; chế tài về cưỡng chế thi hành pháp luật đối với các hành vi xâm hại kết cấu hạ tầng giao thông chưa cụ thể, rõ ràng nên gây khó khăn cho lực lượng chức năng trong quá trình xử lý các đối tượng vi phạm.

- Mức xử phạt theo thủ tục đơn giản quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính là 200.000 đồng, trong thực tế áp dụng các Nghị định của Chính phủ có rất ít trường hợp vi phạm xử phạt tại chỗ, do đó dồn vụ việc về trụ sở đơn vị và lên cấp trên, tạo áp lực quá tải cho các đơn vị và gây khó khăn cho người vi phạm, không đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính.

- Công tác quy hoạch sử dụng đất dọc hai bên đường bộ và tổ chức thực hiện đúng quy hoạch của nhiều địa phương còn yếu kém dẫn đến tình trạng đô thị hóa quốc lộ, đô thị hóa tuyến tránh, cấp đất xây dựng khu dân cư, kinh tế, công nghiệp... dọc hai bên quốc lộ, đấu nối đường nhánh vào quốc lộ gây khó khăn cho công tác quản lý hành lang an toàn giao thông đường bộ và xử lý vi phạm.

- Đầu tư, quản lý kết cấu hạ tầng giao thông: đầu tư, phát triển cho hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và tốc độ tăng của phương tiện giao thông; tổ chức giao thông trên một số tuyến đường bộ chưa khoa học, còn nhiều bất cập, chủ yếu là giao thông hỗn hợp, giao cắt đồng mức gây xung đột cho dòng phương tiện; va chạm giao thông, ùn tắc giao thông, chưa tạo được môi trường giao thông thuận lợi, thông thoáng cho người tham gia giao thông.

- Công tác giảng dạy, kiểm tra kiến thức pháp luật trong đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe ngày càng được đổi mới, hiện đại hóa, tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế cần được khắc phục như: nội dung chương trình đào tạo cần được bổ sung, thay đổi kịp thời để đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ, ý thức đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử và kỹ năng xử lý các tình huống trên đường của đội ngũ lái xe khi tham gia giao thông. Trong quản lý đào tạo có nơi chưa thực hiện nghiêm túc nội dung, chương trình đào tạo; thời gian dạy thực hành trên đường còn ít, việc sát hạch lý thuyết chưa được giám sát công khai.

- Công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ: trước sự phát triển quá nhanh các loại hình phương tiện giao thông vận tải đường bộ đòi hỏi công tác đăng kiểm phải được nâng cao để đáp ứng yêu cầu xã hội. Tình trạng tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, ô nhiễm không khí từ khí thải các loại phương tiện giao thông và mới đây là các hiện tượng cháy nổ xe cơ giới đang đặt ra những thách thức. Ngoài việc nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm xe ô tô thì việc mở rộng đăng kiểm sang các lĩnh vực khác như quản lý bảo dưỡng, sửa chữa xe cơ giới hay đăng kiểm xe mô tô, xe gắn máy đang lưu hành cũng là những yêu cầu cần được giải quyết.

- Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông có nơi, có lúc còn chưa chặt chẽ, chủ yếu thực hiện theo chức năng nhiệm vụ được phân công hoặc trong các đợt ra quân trọng điểm về công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, sau đó chùng lại và có biểu hiện phó mặc cho lực lượng Công an và giao thông vận tải.

2. Giải pháp khắc phục

Để tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác xử lý vi phạm hành chính về giao thông vận tải, trong thời gian qua, Chính phủ đã và sẽ chỉ đạo các Bộ, ngành thực hiện nhiều giải pháp, cụ thể:

a) Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL về trật tự an toàn giao thông, xử phạt vi phạm hành chính bảo đảm tính đồng bộ với các chế tài mạnh đủ tính răn đe và khả thi

- Trình Quốc hội và đã được Quốc hội thông qua Luật Xử lý vi phạm hành chính.

- Ban hành Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 của Chính phủ quy định xử nhạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ theo hướng: Tăng mức xử phạt bằng tiền hoặc điều chỉnh mức phạt bằng tiền theo nhiều mức tương ứng với mỗi mức độ vi phạm của hành vi, bổ sung quy định tạm giữ phương tiện có thời hạn, tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, tạm giữ phương tiện vi phạm đối với một số hành vi vi phạm có nguy cơ cao gây tai nạn giao thông đường bộ; bổ sung quy định tịch thu xe tham gia đua xe không phân biệt chủ sở hữu, mở rộng phạm vi áp dụng thí điểm tăng mức xử phạt cao hơn đối với đô thị loại 1.

- Ban hành Nghị định số 93/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 sửa đổi, bổ sung Nghi định số 91/2009/NĐ-CP ngày 21/10/2009 về kinh doanh, và điều kiện kinh doanh vận tải khách bằng ô tô theo hướng nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động vận tải đường bộ trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật về hoạt động vận tải và an toàn giao thông trong hoạt động vận tải.

- Có kế hoạch sửa đổi, bổ sung các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTVT trong Quý I/2013.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 4/2/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để bảo đảm không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Thanh tra xây dựng và Thanh tra GTVT.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 11/2010/ND-CP ngày 24/2/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ theo hướng làm rõ các quy định về quản lý, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và trách nhiệm của tổ chức cá nhân liên quan.

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về GTVT: đăng kiểm an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện; đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; quy định trách nhiệm của tổ chức cá nhân trong các lĩnh vực liên quan đến công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông; quản lý hoạt động vận tải; quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông.

b) Đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông

- Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1586/QĐ-TTg ngày 24/10/2012 phê duyệt Chiến lược bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ Quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 với nhiều giải pháp đồng bộ, hữu hiệu về bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

- Đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng các công trình hạ tầng giao thông đã và đang được đầu tư xây dựng, nhất là các tuyến giao thông huyết mạch, đường vành đai, các trục giao thông hướng tâm. Tập trung đầu tư mở rộng các tuyến quốc lộ trọng yếu; mở rộng tuyến quốc lộ 1 đủ để lắp giải phân cách giữa để tổ chức giao thông một chiều và tách làn giao thông cho xe ô tô, xe mô tô; xây dựng hệ thống đường gom, xây dựng các nút giao khác mức giữa đường bộ, đường sắt

- Tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tai nạn giao thông trên cả nước và ùn tắc giao thông tại các thành phố lớn được nêu tại Nghị quyết số 21/2011/QH13 ngày 26/11/2011 về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIII. Trước mắt triển khai các biện pháp hành chính nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động giao thông vận tải đường bộ, góp phần giải tỏa áp lực cho hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đặc biệt tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Hiện nay, tại Hà Nội đã triển khai làm thí điểm cầu vượt lắp ghép cho xe ô tô con và xe máy tại các nút giao hay xảy ra ùn tắc giao thông, xây dựng bãi đỗ xe lắp ghép cao tầng. Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã thực hiện rà soát, bổ sung, điều chỉnh các phương án phân luồng, tổ chức giao thông khoa học hơn, lắp đặt bổ sung, nâng cấp hệ thống biển báo, đèn tín hiệu giao thông, lắp đặt dải phân cấp tách dòng xe ô tô và xe mô tô hai bánh tại một số tuyến đường có lưu lượng giao thông cao đã phát huy được hiệu quả.

- Bộ Giao thông vận tải đang triển khai thực hiện Đề án phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 280/QĐ-TTg. Theo đó, giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020, vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt đóng vai trò then chốt và là nhiệm vụ chiến lược của các đô thị trong việc khắc phục ùn tắc giao thông và giảm ô nhiễm môi trường.

c) Công tác đăng kiểm phương tiện cơ giới đường bộ

Bộ Giao thông vận tải đã phê duyệt và đang tổ chức thực hiện Đồ án “Nâng cao chất lượng công tác đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và phương tiện thủy nội địa góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường” (Quyết định số 1873/QĐ-BGTVT ngày 08 tháng 08 năm 2012).

d) Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe

Ngày 12/3/2012, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Quyết định số 513/QĐ-BGTVT Phê duyệt Đề án Nâng cao chất lượng đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông. Nhiệm vụ chính của Đề án đang triển khai thực hiện là nghiên cứu sửa đổi văn bản QPPL về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ, nâng cao chất lượng đào tạo lái xe bằng việc bổ sung quy định tiêu chuẩn kỹ thuật của cơ sở đào tạo, bổ sung giáo trình đào tạo lái xe ô tô và ban hành giáo trình đào tạo lái xe mô tô mới. Sửa đổi bộ câu hỏi dùng để sát hạch lái xe cơ giới đường bộ, tăng thời gian người lái xe thực hành trên đường, lắp đặt hệ thống màn hình theo dõi công khai tại phòng chờ sát hạch lý thuyết. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các kỳ sát hạch lái xe. Riêng trong lĩnh vực đường bộ, Bộ Giao thông vận tải đang triển khai thực hiện Dự án cấp, đổi Giấy phép lái xe bằng vật liệu PET từ ngày 01 tháng 07 năm 2012 nhằm hiện đại hóa công tác quản lý, chống làm giả Giấy phép lái xe.

d) Xây dựng hệ thống giám sát, xử lý vi phạm về trật tự ATGT

- Bộ Công an chỉ đạo Cục Cảnh sát giao thông đường bộ-đường sắt đẩy nhanh tiến độ xây dựng và thực hiện các Dự án thuộc Đề án "Tăng cường và hiện đại hóa công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự ATGT đường bộ" theo Quyết định số 617/QĐ-TTg ngày 15 tháng 05 năm 2009 của Thủ tưởng Chính phủ, trọng tâm là xây dựng hệ thống giám sát, xử lý vi phạm về trật tự ATGT trên các tuyến quốc lộ trọng điểm.

- Bộ Công an phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế huy động các nguồn vốn cho các dự án đầu tư bảo đảm trật tự ATGT, trong đó khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng hệ thống giám sát trật tự ATGT đường bộ bằng hình ảnh.

e) Tuần tra, kiểm soát, xử phạt VPHC

- Củng cố, tăng cường lực lượng bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông (lực lượng thanh tra, công chức thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành).

- Bộ Giao thông vận tải đã chủ động phối hợp với Bộ Công an rà soát chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra giao thông và Cảnh sát giao thông để có sự phân định rõ ràng, tránh chồng chéo.

- Tăng cường kiểm tra, xử lý các hành vi VPHC về giao thông vận tải, đặc biệt tập trung vào các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông; bảo đảm an toàn trong hoạt động vận tải hành khách, hàng hóa; đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe; đăng kiểm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Triển khai thiết lập mạng lưới trạm kiểm tra tải trọng xe trên toàn hệ thống quốc lộ để bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông, phòng, chống, xử lý nghiêm các hành vi chở quá tải trọng của xe, của cầu, đường bộ.

3. Kiến nghị

- Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 47 khoản 2 quy định thẩm quyền của Giám đốc Cảng vụ đường thủy nội địa thuộc Cục Đường thủy nội địa Việt Nam, tuy nhiên không quy định thẩm quyền cho Giám đốc Cảng vụ đường thủy nội địa thuộc địa phương đã gây vướng mắc cho công tác xử phạt vi phạm hành chính tại các cảng vụ đường thủy nội địa ở địa phương vì không có người có thẩm quyền xử phạt.

Chính phủ đề xuất sẽ giải quyết vướng mắc bằng việc đưa quy định về thẩm quyền xử phạt cho lực lượng này tại Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải và đường thủy nội địa và Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giao thông đường thủy nội địa dự kiến trình Quốc hội năm 2013.

- Ngoài lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ, đề nghị Quốc hội tiếp tục tăng cường giám sát công tác xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực giao thông vận tải đường thủy nội địa, đường sắt, hàng hải, hàng không trong thời gian tới.

Trên đây là báo cáo việc thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải, Chính phủ kính báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

 


Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng CP (để b/c);
- PTT. Nguyễn Xuân Phúc (để b/c);
- VPCP;
- Bộ GTVT;
- Bộ Công an;
- Bộ Quốc phòng;
- UBND các tỉnh, tp trực thuộc TW;
- Lưu VT, KTN.

TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI




Đinh La Thăng

 

PHỤ LỤC

KẾT QUẢ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH CỦA CÁC CƠ QUAN
CÓ THẨM QUYỀN TRONG 3 NĂM (2009 - 2011)

I. KẾT QUẢ XỬ PHẠT VPHC CỦA CÁC CƠ QUAN THUỘC BỘ GTVT

1. Thanh tra Tổng cục Đường bộ VN

Năm

2009

2010

2011

Số vụ vi phạm (vụ)

6908

5347

4720

Số vụ xử phạt (vụ)

5018

4412

3205

Số tiền phạt (triệu đồng)

11.266,75

11.995,27

9245,714

2. Thanh tra đường thủy nội địa và Giám đốc Cảng vụ ĐTNĐ

Đơn vị thực hiện

2009

2010

2011

Xử phạt (Trường hợp)

Số tiền (Nghìn đồng)

Xử phạt (Trường hợp)

Số tiền (Nghìn đồng)

Xử phạt (Trường hợp)

Số tiền (Nghìn đồng)

Thanh tra ĐTNĐ

701

710.380

414

469.850

653

1.157.250

Cảng vụ ĐTNĐ

3.450

844.120

4.130

2.693.900

5.084

3.125.000

Cộng:

4.151

1.554.500

4.544

3.163.750

5.734

4.282.250

3. Thanh tra đường sắt

- Trong năm 2010 và 6 tháng đầu năm 2011, lực lượng Thanh tra Đường sắt đã tiến hành xử phạt được 456 vụ, trong đó 445 vụ phạt tiền trực tiếp, thu nộp kho bạc nhà nước đúng quy định với số tiền là 204.150.000 đồng (Hai trăm linh tư triệu, một trăm năm mươi nghìn đồng) và 11 vụ phạt cảnh cáo.

- Năm 2010:

+ Phạt tiền 178 vụ: thu 87.225.000 đ;

+ Phạt cảnh cáo: 09 vụ.

- 6 tháng đầu năm 2011:

+ Phạt tiền 267 vụ: thu 116.925.000 đ;

+ Phạt cảnh cáo: 02 vụ.

4. Thanh tra hàng không và Giám đốc Cảng vụ hàng không

- Từ năm 2009 đến hết năm 2011, những người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt 360 đối tượng có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng, trong đó:

+ Năm 2009: 62 quyết định xử phạt, với số tiền xử phạt là 253.450.000 đồng;

+ Năm 2010: 146 quyết định xử phạt, với số tiền xử phạt là 398.800.000 đồng;

+ Năm 2011: 152 quyết định xử phạt, với số tiền xử phạt 547.075.000 đồng.

Ngoài ra, một số vụ vi phạm xảy ra ở cảng hàng không, sân bay đã được chuyển cho cơ quan công an và UBND xử lý theo quy định.

- Hình thức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng: Cảnh cáo hoặc phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; bị cấm vận chuyển thương mại bằng đường hàng không.

5. Thanh tra hàng hải và Giám đốc Cảng vụ hàng hải

- Năm 2009: Tổng số vụ xử phạt là 965 vụ với số tiền phạt 3.929.550.000 đồng.

- Tổng số vụ tai nạn hàng hải: 69 vụ, trong đó 26 vụ chìm đắm và mắc cạn do ảnh hưởng của cơn bão số 9.

- Năm 2010: Tổng số vụ xử phạt là 660 vụ với tổng số tiền phạt là 3.144.200.000 đồng.

Tổng số vụ tai nạn hàng hải: 42 vụ.

- Năm 2011: số vụ vi phạm hành chính tăng hơn gần 100 vụ so với năm 2010, tổng số vụ xử phạt 752 vụ với tổng số tiền phạt là 4.581.750.000 đồng.

Tổng số vụ tai nạn hàng hải: 60 vụ

II. KẾT QUẢ XỬ PHẠT VPHC CỦA LỰC LƯỢNG CÔNG AN

1. Đường bộ

Năm 2009: xử phạt 5.584.397 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 1.343.000.000 đồng; tước GPLX 180.781 trường hợp; tạm giữ 20.110 ô tô, 746.917 mô tô và 185.556 phương tiện khác.

Năm 2010: xử phạt 6.249.780 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 1.522.000.000 đồng; tước GPLX 200.604 trường hợp; tạm giữ 23.420 ô tô, 699.218 mô tô và 4.895 phương tiện khác.

Năm 2011: xử phạt 6.433.922 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 1.792.000.000 đồng; tước GPLX 275.666 trường hợp; tạm giữ 24.281 ô tô, 559.236 mô tô và 4.063 phương tiện khác.

Tình hình tai nạn giao thông: xảy ra 103.785 vụ, làm chết 33.181 người, bị thương 107.261 người, trong đó:

- TNGT tính từ ít nghiêm trọng trở lên: xảy ra 38.226 vụ, làm chết 32.951 người, bị thương 27.725 người.

- Va chạm giao thông: xảy ra 65.072 vụ, làm bị thương nhẹ 79.238 người.

Cụ thể từng năm như sau:

Năm

TNGT từ ít nghiêm trọng trở lên

Va chạm giao thông

 

Vụ

Chết

Bị thương

Vụ

Bị thương nhẹ

2009

11.798

11.091

7.654

 

 

2010

13.713

11.060

10.036

34.588

41.652

2011

12.715

10.800

9.765

30.489

37.586

2. Đường thủy

Năm 2009: xử phạt 222.821 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 105.280.000.000 đồng; tước quyền sử dụng bằng, chứng chỉ chuyên môn 1.128 trường hợp; đình chỉ hoạt động phương tiện 1.045 trường hợp.

Năm 2010: xử phạt 212.293 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 98.400.000.000 đồng; tước quyền sử dụng bằng, chứng chỉ chuyên môn 224 trường hợp; đình chỉ hoạt động phương tiện 751 trường hợp.

Năm 2011: xử phạt 213.305 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 106.000.000.000 đồng; tước quyền sử dụng bằng, chứng chỉ chuyên môn 232 trường hợp; đình chỉ hoạt động phương tiện 502 trường hợp.

Tình hình tai nạn giao thông: xảy ra 566 vụ, làm chết 472 người, bị thương 69 người, cụ thể từng năm như sau:

Năm

Vụ

Chết

Bị thương

2009

199

180

27

2010

196

146

17

2011

171

146

25

3. Đường sắt

Từ năm 2009-2011, xử lý 39 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 35.400.000 đồng.

Tình hình tai nạn giao thông: xảy ra 1.463 vụ, làm chết 719 người, bị thương 957 người, cụ thể từng năm như sau:

Năm

Vụ

Chết

Bị thương

2009

442

213

306

2010

482

230

298

2011

539

276

353

III. KẾT QUẢ XỬ PHẠT VPHC CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG

- Năm 2009: xử phạt 389 trường hợp vi phạm, số tiền 507.340.000 đồng.

- Năm 2010: xử phạt 425 trường hợp vi phạm, số tiền 613.290.000 đồng.

- Năm 2011: xử phạt 557 trường hợp vi phạm, số tiền 843.620.000 đồng.

IV. KẾT QUẢ XỬ PHẠT VPHC CỦA CẢNH SÁT BIỂN

- Năm 2009: xử phạt 417 trường hợp vi phạm, số tiền 2.915.000.000 đồng.

- Năm 2010: xử phạt 431 trường hợp vi phạm, số tiền 2.450.000.000 đồng.

- Năm 2011: xử phạt 389 trường hợp vi phạm, số tiền 1.930.850.000 đồng.

V. KẾT QUẢ XỬ PHẠT VPHC CỦA UBND CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

1. UBNDTP. HÀ NỘI

Năm 2009:

Đường bộ: Tổng số 677.725 trường hợp với 679.118 người vi phạm, cảnh cáo 42.191 trường hợp, phạt tiền 636.927 trường hợp với tổng tiền phạt 96.546.307.000 đồng, số quyết định đã thi hành 669.729 trường hợp, số quyết định chưa thi hành 9.389 trường hợp.

Tổng số phương tiện bị tạm giữ 25.410 phương tiện (trong đó năm trước chuyển sang 2.130 phương tiện), bao gồm 630 ô tô, 22.113 mô tô, xe máy và 467 phương tiện khác (công nông, xe đạp...), trong đó tịch thu 2.772 phương tiện (2.604 mô tô, 168 phương tiện khác, đã thanh lý xong 2.176 phương tiện); trả chủ sở hữu hợp pháp 16.679 phương tiện (550 ô tô, 15.962 mô tô, 167 phương tiện khác); chuyển cơ quan điều tra 86 phương tiện (01 ô tô, 85 mô tô).

Đường thủy nội địa: Tổng số 5.033 trường hợp, phạt tiền 1.822.495.000 đồng, tạm giữ 5 tàu hút cá.

Năm 2010:

Đường bộ: Tổng số 945.246 trường hợp (so với năm 2009 tăng 266.128 trường hợp), cảnh cáo 52 trường hợp, phạt tiền 945.194 trường hợp với tổng tiền phạt 171.712.524.000 đồng, số quyết định đã thi hành 942.856 trường hợp, số quyết định chưa thi hành 2.390 trường hợp.

Tổng số phương tiện bị tạm giữ 32.799 phương tiện (năm trước chuyển sang 2.000 phương tiện), bao gồm 1.953 ô tô, 29.814 mô tô, xe máy và 1032 phương tiện khác, trong đó tịch thu 1.597 phương tiện (12 ô tô, 1.538 mô tô, 47 phương tiện khác, đã thanh lý xong 808 phương tiện); trả chủ sở hữu hợp pháp 28.768 phương tiện (1.637 ô tô, 26.223 mô tô, 908 phương tiện khác); chuyển cơ quan điều tra 32 phương tiện (02 ô tô, 28 mô tô, 02 phương tiện khác); đang giải quyết 2.402 phương tiện.

Đường thủy nội địa: Tổng số 4.419 trường hợp (giảm 614 trường hợp so với năm 2009), phạt tiền 3.408.435.000 đồng.

Năm 2011:

Đường bộ: Tổng số 954.386 trường hợp (so với năm 2010 tăng 9.140 trường hợp), cảnh cáo 248 trường hợp, phạt tiền 954.138 trường hợp với tổng tiền phạt 225.904.503.000 đồng, số quyết định đã thi hành 949.786 trường hợp, số quyết định chưa thi hành 4.600 trường hợp.

Tổng số phương tiện bị tạm giữ 36.159 phương tiện (năm trước chuyển sang 2.343 phương tiện), bao gồm 2.300 ô tô, 32.396 mô tô, xe máy và 1.463 phương tiện khác, trong đó tịch thu 2.064 phương tiện (1.415 ô tô, mô tô, 649 phương tiện khác, đã thanh lý xong 1082 phương tiện); trả chủ sở hữu hợp pháp 30.551 phương tiện (2.263 ô tô, 28.009 mô tô, 279 phương tiện khác); chuyển cơ quan điều tra 290 phương tiện (31 ô tô, 252 mô tô, 07 phương tiện khác).

Đường thủy nội địa: Tổng số 4.453 trường hợp (tăng 34 trường hợp so với năm 2010), phạt tiền 4.049.225.000 đồng. Tạm giữ 87 lượt phương tiện, thu 20 đầu nổ, 12 sên dọ và hàng trăm mét ống bơm, hút cá trái phép.

2. UBND TP. Hồ Chí Minh

Kết quả xử lý vi phạm từ ngày 01/01/2011 đến ngày 29/2/2012 như sau:

Lực lượng công an:

- Xử phạt trên 1,9 triệu trường hợp (269 tỷ đồng); tạm giữ 79.000 phương tiện, tước GPLX trên 53.000 trường hợp.

- Đã thực hiện phạt 62.620 vụ qua hình ảnh, trong đó đã có 550.249 trường hợp đến nộp phạt.

- Đã gửi 83.112 thông báo vi phạm về nơi cư trú, học tập của người vi phạm.

Lực lượng Thanh tra GTVT:

- Xử phạt 33.611 trường hợp vi phạm (hơn 62.5 tỷ đồng); tước GPLX có thời hạn 16.641 trường hợp; đình chỉ thi công cho đến khi khắc phục xong hậu quả vi phạm đối với 02 trường hợp do quá trình thi công trên đường bộ không bảo đảm các quy định về an toàn giao thông , vệ sinh môi trường và mỹ quan đô thị.

3. UBND thành phố Đà Nẵng

Năm

Số TH xử phạt

Số tiền phạt

Số phương tiện tạm giữ

Tước GPLX

Số TH kiểm tra lại Luật GTĐB

Số xe tịch thu bán đấu giá

Số tiền bán đấu giá

Ô tô

Mô tô

2009

70.824

17.870

114

10.322

1.453

382

298

458

2010

79.460

21.500

61

5.851

1.451

357

252

609

2011

83.103

26.000

655

3.646

1.560

625

338

2.140

Tổng cộng

233.387

65.370

830

19.819

4.464

1.364

888

3200

4. UBND tỉnh Thái Nguyên

Năm 2009: Tổng số 51.464 trường hợp vi phạm, lập Biên bản VPHC 47.769 trường hợp, phạt tiền 17.430.713.000 đồng. Tước giấy phép lái xe có thời hạn 3.615, thu giữ 159 ô tô, 13.636 mô tô và 74 phương tiện khác.

Năm 2010: Tổng số 61.417 trường hợp vi phạm, lập Biên bản VPHC 57.423 trường hợp, phạt tiền 18.378.801.000 đồng. Tước giấy phép lái xe có thời hạn 1.671, thu giữ 171 ô tô, 8.520 mô tô và 07 phương tiện khác.

Năm 2011: Tổng số 54.103 trường hợp vi phạm, lập Biên bản VPHC 52.105 trường hợp, phạt tiền 22.900.170.000 đồng. Tước giấy phép lái xe có thời hạn 1.846, thu giữ 334 ô tô, 8.742 mô tô.

5. UBND tỉnh Vĩnh Long

Tổng số 339.506 trường hợp vi phạm, phạt tiền 115.554 tỷ đồng. Tạm giữ 29.332 phương tiện; tước 19.691 giấy phép lái xe các loại.

6. UBND tỉnh Quảng Ngãi

Năm 2009: Lập biên bản 41.595 trường hợp, ra quyết định xử phạt 41.355 trường hợp với số tiền phạt 17.378.122.000 đồng; tạm giữ 684 ô tô, 12.430 mô tô và 31.315 giấy tờ xe các loại; tước giấy phép lái xe có thời hạn 842 trường hợp.

Năm 2010: Lập biên bản 64.309 trường hợp, ra quyết định xử phạt 64.301 trường hợp với số tiền phạt 27.045.542.000 đồng; tạm giữ 896 ô tô, 15.017 mô tô và 53.718 giấy tờ xe các loại; tước giấy phép lái xe 2.024 trường hợp.

Năm 2011: Lập biên bản 66.744 trường hợp, ra quyết định xử phạt 66.740 trường hợp với số tiền phạt 32.982.071.000 đồng; tạm giữ 678 ô tô, 13.213 mô tô và 59.041 giấy tờ xe các loại; tước giấy phép lái xe 2.111 trường hợp.

7. UBND tỉnh Lạng Son

Trong 3 năm: Xử lý 226.493 trường hợp vi phạm, tổng tiền phạt là 77.512.000.000 đồng, trong đó:

Năm 2009: Lực lượng CSGT xử phạt 65.521 trường hợp vi phạm, tổng số tiền 19.386.880.000 đồng. Lực lượng TTGT xử lý 281 trường hợp vi phạm, số tiền 182.500.000 đồng

Năm 2010: Lực lượng CSGT xử phạt 78.296 trường hợp vi phạm, tổng số tiền 25.082.675.000 đồng. Lực lượng TTGT xử lý 558 trường hợp vi phạm, số tiền 411.400.000 đồng.

Năm 2011: Lực lượng CSGT xử phạt 81.837 trường hợp vi phạm, tổng số tiền 32.449.000.000 đồng.

8. UBND tỉnh Đồng Nai

Trong 3 năm, lực lượng Công an đã phát hiện 1.945.414 trường hợp vi phạm, trong đó 1.886.088 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, 18.344 trường hợp vi phạm trật tự đô thị và 11.893 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa, tạm giữ 260.137 phương tiện vi phạm các loại; ra quyết định xử phạt 1.856.566 trường hợp với tổng tiền phạt 523.223.906.000 đồng; tước giấy phép lái xe 80.512 trường hợp; tịch thu sung công quỹ 14.412 phương tiện (năm 2009: 4.058 xe, năm 2010: 3.103 xe, năm 2011: 7251 xe)

Trong 3 năm, Thanh tra giao thông đã xử lý 75.497 trường hợp vi phạm hành lang an toàn giao thông , kiểm tra an toàn 38 bến đò ngang, các cơ sở đóng mới phương tiện thủy, đình chỉ 3 trường hợp không phép và 25 trường hợp khai thác bến thủy quá thời hạn cho phép; phát hiện xử lý 23.626 trường hợp vi phạm an toàn giao thông đường thủy và vi phạm về vận tải đường bộ, tước giấy phép lái xe có thời hạn 30 ngày 2.802 trường hợp, thời hạn 60 ngày 1.404 trường hợp, cụ thể là:

Năm 2009: phát hiện xử lý 5.185 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, 1796 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy, tổng tiền phạt 3.799 triệu đồng.

Năm 2010: phát hiện xử lý 7.224 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, 1.077 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy, tổng tiền phạt 7.389 triệu đồng.

Năm 2011: phát hiện xử lý 7.157 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, 1.187 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy, tổng tiền phạt 9.017 triệu đồng.

9. UBND tỉnh Hải Dương

Trong 3 năm, lực lượng CSGT và TTGT đã phát hiện lập biên bản 159.106 trường hợp vi phạm, tổng tiền phạt 34.638 tỷ đồng, tạm giữ 2.722 phương tiện, tước giấy phép lái xe có thời hạn 3.579 trường hợp, trong đó:

Năm 2009: lập biên bản VPHC 43.547 trường hợp, xử phạt 6.399 tỷ đồng, tước giấy phép lái xe 722 trường hợp, tạm giữ 690 phương tiện.

Năm 2010: lập biên bản VPHC 34.122 trường hợp, xử phạt 8.656 tỷ đồng, tước giấy phép lái xe 1.183 trường hợp, tạm giữ 251 phương tiện.

Năm 2011: lập biên bản VPHC 81.437 trường hợp, xử phạt 19.583 tỷ đồng, tước giấy phép lái xe 1.829 trường hợp, tạm giữ 1.781 phương tiện.

10. UBND tỉnh Bình Thuận

Năm 2009: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 81.369 trường hợp vi phạm, trong đó phạt cảnh cáo 283 trường hợp, ra quyết định xử phạt 70.552 trường hợp với số tiền 28,3 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 5.479 trường hợp; tạm giữ 25.251 phương tiện các loại.

Lực lượng TTGT phát hiện 3.733 vụ vi phạm, trong đó nhắc nhở 1.052 trường hợp, lập biên bản và ra quyết định xử phạt 2.695 trường hợp với số tiền phạt 4,414 tỷ đồng.

Trạm kiểm soát tải trọng trên QL 55: đã lập biên bản VPHC 262 trường hợp, tước GPLX 292 trường hợp, buộc hạ tải 29 trường hợp, số tiền xử phạt 251.950 triệu đồng.

Năm 2010: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 81.995 trường hợp vi phạm, trong đó phạt cảnh cáo 430 trường hợp, ra quyết định xử phạt 72.058 trường hợp với số tiền 32.383 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 3.931 trường hợp; tạm giữ 20.129 phương tiện các loại.

Lực lượng TTGT phát hiện 2.981 vụ vi phạm, trong đó nhắc nhở 849 trường hợp, lập biên bản và ra quyết định xử phạt 2.415 trường hợp với số tiền phạt 4,660 tỷ đồng; tước quyền sử dụng GPLX 605 trường hợp, phát hiện và xử lý 16 GPLX không do cơ quan có thẩm quyền cấp.

Năm 2011: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 85.110 trường hợp vi phạm, trong đó phạt cảnh cáo 75 trường hợp, ra quyết định xử phạt 78.229 trường hợp với số tiền 37,97 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 3.305 trường hợp; tạm giữ 19.537 phương tiện các loại.

Lực lượng TTGT phát hiện 3.740 vụ vi phạm, trong đó nhắc nhở 1.015 trường hợp, lập biên bản và ra quyết định xử phạt 2.725 trường hợp với số tiền phạt 4,659 tỷ đồng; tước quyền sử dụng GPLX 1.141 trường hợp, phát hiện và xử lý 43 GPLX không do cơ quan có thẩm quyền cấp.

Lực lượng CSGT phát hiện và lập biên bản VPHC 32 trường hợp đối với phương tiện thủy hải sản, đò ngang, ca nô  với số tiền phạt 28,2 triệu đồng.

Trong 3 năm đã tịch thu sung công quỹ nhà nước 226 xe mô tô và 05 ô tô.

11. UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế

Năm 2009:

Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 56.821 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 49.828 trường hợp với số tiền 15 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 1.190 trường hợp; tạm giữ 1.678 phương tiện các loại.

Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 1.906 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.760 trường hợp với số tiền phạt 558.000 triệu đồng; tước quyền sử dụng GPLX 117 trường hợp.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 205 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 205 trường hợp với số tiền 74 triệu đồng; đình chỉ hoạt động 6 trường hợp vi phạm.

Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 10 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 10 trường hợp.

Năm 2010:

Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 62.897 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 54.304 trường hợp với số tiền 17,2 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 1.306 trường hợp; tạm giữ 2.060 phương tiện các loại.

Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 2.034 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.985 trường hợp với số tiền phạt 730 triệu đồng; tước quyên sử dụng GPLX 175 trường hợp.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 144 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 144 trường hợp với số tiền 63,3 triệu đồng.

Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 11 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 11 trường hợp.

Năm 2011:

Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 82.675 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 67.317 trường hợp với số tiền 26,93 tỷ đồng; tước giấy phép lái xe 2.262 trường hợp; tạm giữ 2.265 phương tiện các loại.

Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 1.370 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.451 trường hợp với số tiền phạt 715 triệu đồng; tước quyền sử dụng GPLX 182 trường hợp.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT đã phát hiện và lập biên bản 183 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 183 trường hợp với số tiền 92,2 triệu đồng.

Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 125 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 125 trường hợp.

12. UBND tỉnh Lào Cai

Trung bình mỗi năm có khoảng 21.000 vụ vi phạm được phát hiện về đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa, cụ thể là:

Năm 2009: Phát hiện 22.516 vụ vi phạm, đã xử lý 19.729 vụ với số tiền phạt là 4.123.596.000; tước giấy phép lái xe (từ 30-90 ngày) 233 trường hợp; tạm giữ phương tiện (từ 01-90 ngày) 2.216 trường hợp.

Năm 2010: Phát hiện 21.272 vụ vi phạm, đã xử lý 17.380 vụ với số tiền phạt là 4.667.438.000; tước giấy phép lái xe (từ 30-90 ngày) 429 trường hợp; tạm giữ phương tiện (từ 01-90 ngày) 1.066 trường hợp.

Năm 2011: Phát hiện 20.231 vụ vi phạm, đã xử lý 18.503 vụ với số tiền phạt là 5.808.663.000; tước giấy phép lái xe (từ 30-90 ngày) 501 trường hợp; tạm giữ phương tiện (từ 01-90 ngày) 582 trường hợp.

13. UBND tỉnh Quảng Trị

Năm 2009:

Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện 43.410 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 43.364 trường hợp với số tiền phạt 11.290,85 triệu đồng..

Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 586 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 508 trường hợp với số tiền phạt 465,25 triệu đồng.

Tước giấy phép lái xe 710 trường hợp; tạm giữ 2.150 phương tiện.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT đã phát hiện 140 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 9 trường hợp, ra quyết định xử phạt 131 trường hợp với số tiền phạt 100,85 triệu đồng.

Năm 2010:

Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện 50.809 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 48.469 trường hợp với số tiền phạt 15.387 triệu đồng.

Lực lượng TTGT phát hiện lập, biên bản 508 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 440 trường hợp với số tiền phạt 413 triệu đồng.

Tạm giữ giấy phép lái xe 670 trường hợp; Đình chỉ hoạt động có thời hạn 1.656 phương tiện.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT và TTGT đã phát hiện 148 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 41 trường hợp, ra quyết định xử phạt 107 trường hợp với số tiền phạt 58,3 triệu đồng.

Năm 2011:

Đường bộ: lực lượng CSGT đã phát hiện 59.325 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 59.150 trường hợp với số tiền phạt 23.198 triệu đồng.

Lực lượng TTGT phát hiện lập biên bản 1.111 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 578 trường hợp với số tiền phạt 538,4 triệu đồng.

Tạm giữ giấy phép lái xe 1450 trường hợp; Đình chỉ hoạt động có thời hạn 2.078 phương tiện; Tịch thu, đấu giá sung công quỹ nhà nước 2 xe ô tô, 5 xe mô tô, 3 tổng thành máy không rõ nguồn gốc. Tịch thu 68 trường hợp sử dụng GPLX giả.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT và TTGT đã phát hiện 80 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 11 trường hợp, ra quyết định xử phạt 69 trường hợp với số tiền phạt 71 triệu đồng.

14. UBND tỉnh Nam Định

Năm 2009: xử lý 55.153 trường hợp vi phạm, số tiền phạt là 15.420.050.000 đồng.

Năm 2010: xử lý 77.095 trường hợp vi phạm, số tiền phạt là 19.759.310.000 đồng.

Năm 2011: xử lý 89.956 trường hợp vi phạm, số tiền phạt là 21.267.113.000 đồng.

Trong 3 năm đã tước GPLX 1.974 trường hợp, tạm giữ 102.022 phương tiện.

15. UBND tỉnh Hà Nam

Năm 2009: xử phạt 32.266 trường hợp, phạt tiền 14.159.485.000 đồng, trong đó:

Đường bộ: lực lượng CSGT xử phạt 32.034 trường hợp với số tiền 13.983.495.000 đồng. TTGT xử phạt 232 trường hợp với số tiền phạt 175.990.000 đồng. TTGT xử phạt 232 trường hợp với số tiền phạt 175.990.000 đồng.

Tạm giữ 193 phương tiện; tước GPLX 530 trường hợp.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT xử phạt 629 trường hợp với số tiền 94.750.000 đồng.

Năm 2010: xử phạt 33.393 trường hợp, phạt tiền 14.500.500.000 đồng, trong đó:

Đường bộ: lực lượng CSGT xử phạt 33.175 trường hợp với số tiền 14.356.265.000 đồng. TTGT xử phạt 218 trường hợp với số tiền phạt 144.235.000 đồng.

Tạm giữ 144 phương tiện; tước GPLX 930 trường hợp.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT xử phạt 680 trường hợp với số tiền 122.500.000 đồng.

Năm 2011: xử phạt 34.041 trường hợp, phạt tiền 18.398.041.000 đồng, trong đó:

Đường bộ: lực lượng CSGT xử phạt 33.714 trường hợp với số tiền 18.146.441.000 đồng. TTGT xử phạt 327 trường hợp với số tiền phạt 251.600.000 đồng.

Tạm giữ 174 phương tiện; tước GPLX 530 trường hợp.

Đường thủy nội địa: lực lượng CSGT xử phạt 714 trường hợp với số tiền 132.500.000 đồng.

16. UBND tỉnh Khánh Hòa

Đường bộ: trong 3 năm, lực lượng CSGT lập biên bản 133.396 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 281 trường hợp, ra quyết định xử phạt 128.737 trường hợp với số tiền phạt 55.754.365.000 đồng; tạm giữ 24.252 phương tiện; tước GPLX 4.598 trường hợp. Lực lượng TTGT lập biên bản 12.821 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 12.811 trường hợp với số tiền phạt 7.048.580.000 đồng; tước GPLX 8.492 trường hợp, cụ thể các năm như sau:

Năm 2009: lực lượng CSGT lập biên bản 48.637 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 65 trường hợp, ra quyết định xử phạt 47.364 trường hợp với số tiền phạt 18.618.456.000 đồng; tạm giữ 9.464 phương tiện; tước GPLX 2.281 trường hợp. Lực lượng TTGT lập biên bản 3.077 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 3.077 trường hợp với số tiền phạt 1.457.130.000 đồng; tước GPLX 897 trường hợp

Năm 2010: lực lượng CSGT lập biên bản 38.132 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 133 trường hợp, ra quyết định xử phạt 36.723 trường hợp với số tiền phạt 13.569.909.000 đồng; tạm giữ 6.785 phương tiện; tước GPLX 831 trường hợp. Lực lượng TTGT lập biên bản 4.087 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 4.087 trường hợp với số tiền phạt 1.988.120.000 đồng; tước GPLX 1.324 trường hợp

Năm 2011: lực lượng CSGT lập biên bản 46.627 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 83 trường hợp, ra quyết định xử phạt 44.650 trường hợp với số tiền phạt 23.566.000.000 đồng; tạm giữ 8.003 phương tiện; tước GPLX 1.486 trường hợp. Lực lượng TTGT lập biên bản 5.647 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 5.647 trường hợp với số tiền phạt 3.603.330.000 đong; tước GPLX 1.673 trường hợp.

Đường thủy nội địa xử phạt 362 vụ vi phạm với số tiền 228.535.000 đồng; tước quyền sử dụng bằng thuyền trưởng 24 trường hợp.

17. UBND tỉnh Điện Biên

Năm 2009: Lập biên bản 11.234 trường hợp, xử phạt 9.722 trường hợp với số tiền 2.575.035.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 122 trường hợp, 60 ngày 8 trường hợp và 90 ngày 3 trường hợp; tịch thu 116 phương tiện vi phạm.

Năm 2010: Lập biên bản 23.304 trường hợp, xử phạt 20.298 trường hợp với số tiền 6.557.130.500 đồng; tước GPLX 30 ngày 628 trường hợp, 60 ngày 21 trường hợp và 90 ngày 3 trường hợp; tịch thu 224 phương tiện vi phạm.

Năm 2011: Lập biên bản 23.675 trường hợp, xử phạt 21.546 trường hợp với số tiền 6.853.613.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 468 trường hợp, 60 ngày 33 trường hợp; tịch thu 338 phương tiện vi phạm.

18. UBND tỉnh Đắc Nông

Trong 3 năm đã phát hiện 159.042 vụ vi phạm, xử phạt 151.110 trường hợp với số tiền 49.611.068.000 đồng, cụ thể từng năm như sau:

Năm 2009: Lập biên bản 45.373 trường hợp, xử phạt 41.975 trường hợp với số tiền 13.303.731.000 đồng; tước GPLX 1.412 trường hợp; tạm giữ 13.487 phương tiện vi phạm các loại.

Năm 2010: Lập biên bản 50.867 trường hợp, xử phạt 49.509 trường hợp với số tiền 15.669.449.000 đồng; tước GPLX 1.218 trường hợp; tạm giữ 10.957 phương tiện vi phạm các loại.

Năm 2011: Lập biên bản 63.162 trường hợp, xử phạt 59.626 trường hợp với số tiền 20.637.888.000 đồng; tước GPLX 2.024 trường hợp; tạm giữ 11.223 phương tiện vi phạm các loại.

19. UBND tỉnh Hòa Bình

Trong 3 năm đã phát hiện 102.131 vụ vi phạm, xử phạt tiền 86.060 trường hợp, cảnh cáo 16.071 trường hợp, tổng số tiền phạt là 27.346.152.000 đồng; tạm giữ 13.897 phương tiện; thông báo về nơi cư trú, đơn vị công tác, học tập của đối tượng vi phạm là 1.866 trường hợp; tước quyền sử dụng GPLX có thời hạn 1.070 trường hợp, cụ thể từng năm như sau:

Năm 2009: Lập biên bản 40.628 trường hợp, xử phạt 34.793 trường hợp với số tiền 9.650.027.000 đồng, phạt cảnh cáo 5.835 trường hợp; tước GPLX 253 trường hợp; tạm giữ 7.342 phương tiện vi phạm các loại.

Năm 2010: Lập biên bản 28.361 trường hợp, xử phạt 23.739 trường hợp với số tiền 10.011.500.500 đồng, phạt cảnh cáo 4.622 trường hợp; tước GPLX 432 trường hợp; tạm giữ 3.278 phương tiện vi phạm các loại; thông báo về nơi cư trú, công tác, học tập của đối tượng vi phạm là 927 trường hợp.

Năm 2011: Lập biên bản 33.142 trường hợp, xử phạt 27.529 trường hợp với số tiền 7.684.625.000 đồng, phạt cảnh cáo 5.613 trường hợp; tước GPLX 521 trường hợp; tạm giữ 3.230 phương tiện vi phạm các loại; thông báo về nơi cư trú, công tác, học tập của đối tượng vi phạm là 939 trường hợp.

20. UBND tỉnh Sơn La

Năm 2009: TTGT đã phát hiện 131 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 46 trường hợp, số tiền 105.750.000 đồng.

Lực lượng CSGT xử phạt 38.880 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 575.510.000 đồng; tạm giữ 7.330 phương tiện; tước 1.483 GPLX, thu 48 GPLX giả.

Năm 2010: TTGT đã phát hiện 158 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 123 trường hợp, số tiền 253.500.000 đồng (5 trường hợp đã thực hiện Quyết định xử phạt, 118 trường hợp chưa chấp hành).

Lực lượng CSGT xử phạt 37.658 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 12.109.993.000 đồng; tạm giữ 5.193 phương tiện; tước 1.009 GPLX, thu 25 GPLX giả, 01 biển số giả.

Năm 2011: TTGT đã phát hiện 222 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 123 trường hợp, số tiền 185.000.000 đồng.

Lực lượng CSGT xử phạt 32.578 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 12.252.380.000 đồng; tạm giữ 4.271 phương tiện; tước 1.345 GPLX, thu 20 GPLX giả.

21. UBND tỉnh Hà Tĩnh

Năm 2009: Phát hiện 75.138 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 73.906 trường hợp, số tiền phạt 16.537.665.000 đồng; tạm giữ 87 ô tô, 2516 xe máy.

Năm 2010: Phát hiện 60.912 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 51.726 trường hợp, số tiền phạt 16.281.237.000 đồng; tạm giữ 48 ô tô, 1538 xe máy.

Năm 2011: Phát hiện 69.928 vụ vi phạm, ra quyết định xử phạt 64.336 trường hợp, số tiền phạt 19.250.000.000 đồng; tạm giữ 120 ô tô, 3.219 xe máy.

22. UBND tỉnh Bình Phước

Năm 2009: Lực lượng CSGT phát hiện 67.187 vụ vi phạm, cảnh cáo 82 trường hợp, ra quyết định xử phạt 66.367 trường hợp, số tiền phạt 22.177.928.000 đồng; tạm giữ 16.967 phương tiện, tịch thu 2.452 xe mô tô không rõ nguồn gốc.

Lực lượng TTGT phát hiện 1.199 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.163 trường hợp, số tiền phạt 482.486.000 đồng; tạm giữ 251 tang vật, phương tiện vi phạm.

Năm 2010: Lực lượng CSGT phát hiện 85.562 vụ vi phạm, cảnh cáo 764 trường hợp, ra quyết định xử phạt 84.798 trường hợp, số tiền phạt 30.144.586.000 đồng; tạm giữ 14.116 phương tiện, tịch thu 1.528 xe mô tô không rõ nguồn gốc.

Lực lượng TTGT phát hiện 1.939 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.815 trường hợp, số tiền phạt 1.502.775.000 đồng; tạm giữ 340 tang vật, phương tiện vi phạm.

Năm 2011: Lực lượng CSGT phát hiện 105.035 vụ vi phạm, cảnh cáo 1.415 trường hợp, ra quyết định xử phạt 103.620 trường hợp, số tiền phạt 40.799.945.000 đồng; tạm giữ 19.797 phương tiện, tịch thu 966 xe mô tô không rõ nguồn gốc.

Lực lượng TTGT phát hiện 1.931 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 1.775 trường hợp, số tiền phạt 1.965.101.000 đồng; tạm giữ 514 tang vật, phương tiện vi phạm.

23. UBND tỉnh Bạc Liêu

Năm 2009: xử phạt 46.728 trường hợp vi phạm, số tiền 13.347.238.000 đồng; tước GPLX 1.402 trường hợp; tạm giữ 13.566 phương tiện các loại.

Năm 2010: phát hiện 37.045 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 896 trường hợp, phạt tiền 36.630 trường hợp, số tiền 13.092.188.000 đồng; tước GPLX 1.102 trường hợp; tạm giữ 10.980 phương tiện các loại.

Năm 2011: phát hiện 41.141 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 739 trường hợp, phạt tiền 40.969 trường hợp, số tiền 17.744.421.000 đồng; tước GPLX 1.749 trường hợp; tạm giữ 10.249 phương tiện các loại.

24. UBND tỉnh Bình Dương

Năm 2009: xử phạt 118.964 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 51.464.287.000 đồng, cảnh cáo 675 trường hợp, tước GPLX 7.177 trường hợp, tạm giữ 47.136 phương tiện, đình chỉ lưu hành 11.200 trường hợp, tạm giữ 47.136 tang vật các loại, tước bằng thuyền trưởng 13 trường hợp.

Năm 2010: xử phạt 105.658 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 48.962.535.000 đồng, cảnh cáo 280 trường hợp, tước GPLX 5.260 trường hợp, tạm giữ 27.836 phương tiện, đình chỉ lưu hành 6.300 trường hợp, tạm giữ 5.036 tang vật các loại.

Năm 2011: xử phạt 107.053 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 53.126.770.000 đồng, tước GPLX 5.710 trường hợp, tạm giữ 26.054 phương tiện, đình chỉ lưu hành 4.013 trường hợp, tạm giữ 8.399 tang vật các loại, tháo dỡ 465 lều quán xây dựng trái phép. Tước bằng thuyền trưởng 2 trường hợp; đình chỉ hoạt động 7 bến thủy nội địa, 2 bến khách ngang sông.

25. UBND tỉnh Cao Bằng

Trong 3 năm phát hiện 52.000 vụ vi phạm, xử phạt 51.834 trường hợp, số tiền phạt 20.492.436 đồng.

26. UBND tỉnh Bắc Giang

Năm 2009: phát hiện 111.173 trường hợp vi phạm, xử phạt 107.467 trường hợp, số tiền phạt 29.696.565.000 đồng; tạm giữ 12.044 phương tiện các loại; tước GPLX 3.104 trường hợp; tịch thu 555 phương tiện các loại bán đấu giá sung công quỹ nhà nước 715 triệu đồng.

Năm 2010: phát hiện 106.905 trường hợp vi phạm, xử phạt 106.322 trường hợp, số tiền phạt 33.214.120.000 đồng; tạm giữ 10.410 phương tiện các loại; tước GPLX 3.175 trường hợp; tịch thu 832 phương tiện các loại bán đấu giá sung công quỹ nhà nước 917 triệu đồng.

Năm 2011: phát hiện 100.644 trường hợp vi phạm, xử phạt 100.301 trường hợp, số tiền phạt 33.498.610.000 đồng; tạm giữ 10.824 phương tiện các loại; tước GPLX 3.840 trường hợp; tịch thu 938 phương tiện các loại bán đấu giá sung công quỹ nhà nước 1.264 triệu đồng.

27. UBND TP. Hải Phòng

Năm 2009: Lực lượng CSGT xử phạt 181.261 trường hợp, số tiền 35.741.581.000 đồng.

Lực lượng TTGT xử phạt 1383 trường hợp, số tiền 1.348.815.000 đồng.

Năm 2010: Lực lượng CSGT xử phạt 166.099 trường hợp, số tiền 45.213.581.000 đồng.

Lực lượng TTGT xử phạt 1694 trường hợp, số tiền 1.501.390.000 đồng.

Năm 2011: Lực lượng CSGT xử phạt 201.066 trường hợp, số tiền 57.841.047.000 đồng.

Lực lượng TTGT xử phạt 2.224 trường hợp, số tiền 2.055.620.000 đồng.

Trong 3 năm lực lượng CSGT đã tước GPLX 5.936 trường hợp, tạm giữ 36.850 phương tiện.

28. UBND tỉnh Sóc Trăng

Năm 2009: phát hiện 74.399 trường hợp vi phạm, giáo dục nhắc nhở 11.426 trường hợp, tạm giữ 24.677 phương tiện đường bộ các loại, phạt tiên 56.926 trường hợp vơi số tiền 21.634.483.000 đồng; tước GPLX, bằng thuyền trưởng, máy trưởng 3.871 trường hợp; tịch thu 475 GPLX, chứng chỉ chuyên môn phương tiện thủy nội địa giả; đình chỉ 119 bến khách, phương tiện chở khách ngang sông không đủ điều kiện hoạt động; tháo dỡ 191 đăng, đáy cá lấn chiếm luồng tàu chạy.

Năm 2010: phát hiện 75.985 trường hợp vi phạm, giáo dục nhắc nhở 11.147 trường hợp, tạm giữ 19.951 phương tiện đường bộ các loại, phạt tiền 58.094 trường hợp vơi số tiền 28.316.094.000 đồng; tước GPLX, bằng thuyền trưởng, máy trưởng 4.795 trường hợp; tịch thu 607 GPLX, chứng chỉ chuyên môn phương tiện thủy nội địa giả; đình chỉ 28 bến khách, phương tiện chở khách ngang sông không đủ điều kiện hoạt động; tháo dỡ 47 miệng đáy, 87 cột đáy và 3 trường hợp đặt chà, nò lấn chiếm luồng tàu chạy; tháo dỡ 50 nhà cửa, lều quán lấn chiếm hành lang ATĐB.

Năm 2011: phát hiện 83.594 trường hợp vi phạm, giáo dục nhắc nhở 10.040 trường hợp, tạm giữ 22.961 phương tiện đường bộ các loại, phạt tiền 73.289 trường hợp với số tiền 33.022.945.000 đồng; tước GPLX, bằng thuyền trưởng, máy trưởng 5.326 trường hợp; tịch thu 976 GPLX, chứng chỉ chuyên môn phương tiện thủy nội địa giả; đình chỉ 28 bến khách, phương tiện chở khách ngang sông không đủ điều kiện hoạt động, tháo dỡ 98 đăng, đáy chà, nò lấn chiếm luồng tàu chạy; tháo dỡ 58 nhà cửa, lều quán lấn chiếm hành lang ATĐB.

29. UBND tỉnh Kon Tum

Trong 3 năm Thanh tra GTVT đã xử phạt với số tiền 412.335.000 đồng.

Năm 2009: xử phạt 174 trường hợp với số tiền 99.500.000 đồng

Năm 2010: xử phạt 154 trường hợp với số tiền 128.225.000 đồng

Năm 2011: xử phạt 146 trường hợp với số tiền 184.610.000 đồng

30. UBND tỉnh Bắc Cạn

Lực lượng công an: xử lý 18.175 trường hợp vi phạm, số tiền phạt 6.609.461.000 đồng; tước GPLX 827 trường hợp, tạm giữ 128 ô tô, 3 xe công nông, 2824 mô tô.

Thanh tra giao thông: phát hiện 987 trường hợp vi phạm, nhắc nhở 511 trường hợp, xử phạt 476 trường hợp, số tiền phạt 1.171.855.000 đồng; tước GPLX có thời hạn đối với 104 trường hợp.

31. UBND tỉnh Bình Định

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 11.336 trường hợp, số tiền phạt 4.350.000.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 832 trường hợp, 60 ngày là 78 trường hợp.

Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 120 trường hợp vi phạm với số tiền 17.000.000 đồng; đình chỉ các bến thủy và phương tiện thủy không có giấy phép hoạt động.

32. UBND tỉnh Ninh Thuận

Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 1.659 trường hợp với số tiền 748.100.000 đồng.

Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 1.497 trường hợp với số tiền 915.400.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 127 trường hợp, 60 ngày 37 trường hợp.

Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 2.074 trường hợp với số tiền 1.400.000.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 249 trường hợp, 60 ngày 36 trường hợp.

33. UBND tỉnh Gia Lai

Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 392 trường hợp, số tiền 170.850.000 đồng

Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 671 trường hợp, số tiền 554.480.000 đồng

Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 205 trường hợp, số tiền 170.360.000 đồng

34. UBND tỉnh Trà Vinh

Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 567 trường hợp, số tiền 271.075.000 đồng

Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 843 trường hợp, số tiền 356.105.000 đồng

Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 979 trường hợp, số tiền 809.480.000 đồng

35. UBND tỉnh Nghệ An

Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 3559 trường hợp, số tiền 5.301.322.000 đồng

Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 1688 trường hợp, số tiền 6.277.569.000 đồng

Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 2358 trường hợp, số tiền 6.997.658.000 đồng

36. UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 6.744 trường hợp, số tiền 4.120.790.000 đồng

Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 4.813 trường hợp, số tiền 3.526.705.000 đồng

Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 4.571 trường hợp, số tiền 3.817.505.000 đồng

37. UBND tỉnh Thái Bình

Năm 2009: xử phạt 122.289 trường hợp, số tiền 28.265.043.000 đồng.

Năm 2010: xử phạt 116.704 trường hợp, số tiền 26.749.000.000 đồng.

Năm 2011: xử phạt 94.376 trường hợp, số tiền 24.249.000.000 đồng.

38. UBND tỉnh Tiền Giang

Năm 2009:

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 1.266 trường hợp, số tiền 902.500.000 đồng.

Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 112 trường hợp, số tiền 82.000.000 đồng.

Năm 2010:

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 1.192 trường hợp, số tiền 866.900.000 đồng.

Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 75 trường hợp, số tiền 50.550.000 đồng.

Năm 2011:

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 1.465 trường hợp, số tiền 1.198.580.000 đồng.

Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 94 trường hợp, số tiền 64.000.000 đồng.

39. UBND tỉnh Lâm Đồng

Trong 3 năm, Thanh tra GTVT lập biên bản 2.128 trường hợp vi phạm, xử phạt 2.022 trường hợp với số tiền 1.814.005.000 đồng; tước GPLX 30 ngày 317 trường hợp, 60 ngày 44 trường hợp.

40. UBND tỉnh Yên Bái

Năm 2009:

Đường bộ: phát hiện 30.530 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 128 trường hợp, ra quyết định xử phạt 28.442 trường hợp, số tiền phạt 6.267.540.000 đồng; tạm giữ 6.185 mô tô, 181 ô tô, 165 xe đạp; tước GPLX 773 trường hợp; cưỡng chế khắc phục tại chỗ 365 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông tỉnh; tổ chức học lại Luật GTĐB cho 87 đối tượng; thông báo kết quả xử phạt VPHC về nơi cư trú, công tác và học tập cho 5.066 trường hợp.

Đường thủy nội địa: phát hiện 429 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 401 trường hợp, số tiền phạt 29.885.000 đồng; đình chỉ hoạt động 2 phương tiện; tạm giữ giấy tờ 26 trường hợp; khắc phục tại chỗ 23 trường hợp.

Năm 2010:

Đường bộ: phát hiện 32.1009 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 53 trường hợp, ra quyết định xử phạt 30.554 trường hợp, số tiền phạt 7.670.730.000 đồng; tạm giữ 5.439 mô tô, 271 ô tô; tước GPLX 849 trường hợp; cưỡng chế khắc phục tại chỗ 152 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông tĩnh; tổ chức học lại Luật GTĐB cho 41 đối tượng.

Đường thủy nội địa: phát hiện 296 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 293 trường hợp, số tiền phạt 21.835.000 đồng; đình chỉ hoạt động 15 phương tiện và 13 bến.

Năm 2011:

Đường bộ: phát hiện 35.590 trường hợp vi phạm, cảnh cáo 25 trường hợp, ra quyết định xử phạt 34.476 trường hợp, số tiền phạt 8.819.290.000 đồng; tạm giữ 5.079 mô tô, 175 ô tô; tước GPLX 935 trường hợp; tổ chức học lại Luật GTĐB cho 38 đối tượng.

Đường thủy nội địa: phát hiện 179 trường hợp vi phạm, ra quyết định xử phạt 173 trường hợp, số tiền phạt 14.510.000 đồng.

41. UBND tỉnh Phú Yên

Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 177 trường hợp, số tiền 142.700.000  đồng

Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 215 trường hợp, số tiền 298.850.000 đồng

Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 481 trường hợp, số tiền 791.960.000 đồng

42. UBND tỉnh Hậu Giang

Trong 3 năm, Thanh tra GTVT xử phạt 4.325 trường hợp với số tiền 3.895.500.000 đồng.

43. UBND tỉnh Tuyên Quang

Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 464 trường hợp, số tiền 378.400.000 đồng; tạm giữ 146 bộ giấy tờ phương tiện, 6 biển kiểm soát ô tô, 10 phương tiện thủy, tước GPLX 8 trường hợp.

Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 273 trường hợp, số tiền 397.585 đồng; tạm giữ 2 xe ô tô, 159 bộ giấy tờ phương tiện; tước GPLX 15 trường hợp; đình chỉ hoạt động 5 bến khách ngang sông.

Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 281 trường hợp, số tiền 465.710.000 đồng; tạm giữ 0 xe ô tô, 199 bộ giấy tờ phương tiện; tước GPLX 34 trường hợp; đình chỉ hoạt động 3 bến khách ngang sông.

44. UBND tỉnh Cao Bằng

Trong 3 năm, Thanh tra GTVT phát hiện 52.000 vụ vi phạm, xử phạt 51.834 trường hợp với số tiền 20.492.436.000 đồng.

45. UBND tỉnh Quảng Trị

Năm 2009:

Đường bộ: xử phạt 43.872 trường hợp, số tiền 11.756.100.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 710 trường hợp, tạm giữ 2.150 phương tiện, trong đó có 2.024 mô tô, xe máy, 126 xe ô tô.

Đường thủy nội địa: phát hiện 140 trường hợp, cảnh cáo 9 trường hợp, xử phạt 131 trường hợp, số tiền 100.850.000 đồng.

Năm 2010:

Đường bộ: xử phạt 48.909 trường hợp, số tiền 15.800.000.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 670 trường hợp, tạm giữ 1.656 phương tiện, trong đó có 1.163 mô tô, xe máy, 493 xe ô tô.

Đường thủy nội địa: phát hiện 148 trường hợp, cảnh cáo 41 trường hợp, xử phạt 107 trường hợp, số tiền 58.300.000 đồng.

Năm 2011:

Đường bộ: xử phạt 59.728 trường hợp, số tiền 23.740.000.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 1.450 trường hợp, tạm giữ 2.078 phương tiện, trong đó có 1.551 mô tô, xe máy, 536 xe ô tô; tịch thu 68 trường hợp GPLX giả; tịch thu sung công 2 xe ô tô, 5 xe mô tô, 3 tổng thành máy không rõ nguồn gốc.

Đường thủy nội địa: phát hiện 80 trường hợp, cảnh cáo 11 trường hợp, xử phạt 69 trường hợp, số tiền 71.000.000 đồng.

46. UBND tỉnh Bắc Cạn

Phát hiện 19.162 trường hợp vi phạm, phạt tiền 7.781.316.000 đồng, tước giấy phép lái xe có thời hạn 931 trường hợp, tạm giữ 128 ô tô, 2.824 mô tô và 03 xe công nông.

47. UBND thành phố Cần Thơ

Năm 2009:

Đường bộ: xử phạt 72.781 trường hợp, số tiền 29.217.030.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 5.371 trường hợp, tạm giữ 7.111 phương tiện.

Đường thủy nội địa: xử phạt 560 trường hợp, số tiền 265.480.000 đồng.

Năm 2010:

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 1.067 trường hợp, số tiền 1.386.710.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 394 trường hợp.

Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 152 trường hợp, số tiền 77.915.000 đồng.

Năm 2011:

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 983 trường hợp, số tiền 1.293.220.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 427 trường hợp.

Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 128 trường hợp, số tiền 74.540.000 đồng.

48. UBND tỉnh Hưng Yên

Năm 2009:

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 150 trường hợp, số tiền 259.020.000 đồng.

Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 7 trường hợp, số tiền 9.500.000 đồng; tước quyền sử dụng có thời hạn 2 bằng thuyền trưởng.

Năm 2010:

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 299 trường hợp, số tiền 590.000.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 106 trường hợp.

Năm 2011:

Đường bộ: Thanh tra GTVT xử phạt 147 trường hợp, số tiền 295.450.000 đồng; tước GPLX có thời hạn 28 trường hợp.

Đường thủy nội địa: Thanh tra GTVT xử phạt 10 trường hợp, số tiền 8.850.000 đồng.

49. UBND tỉnh Vĩnh Phúc

Năm 2009: Thanh tra GTVT xử phạt 316 trường hợp, số tiền 134.550.000 đồng.

Năm 2010: Thanh tra GTVT xử phạt 495 trường hợp, số tiền 383.020.000 đồng.

Năm 2011: Thanh tra GTVT xử phạt 581 trường hợp, số tiền 764.280.000 đồng.

Trong 3 năm, Thanh tra GTVT giữ GPLX thời hạn 30 ngày 47 trường hợp và 60 ngày 17 trường hợp.

50. UBND tỉnh Bắc Ninh

Năm 2009: Thanh tra GTVT lập biên bản 211 trường hợp, xử phạt 140 trường hợp, số tiền 50.690.000 đồng.

Năm 2010: Thanh tra GTVT lập biên bản 461 trường hợp, xử phạt 462 trường hợp, số tiền 218.640.000 đồng.

Năm 2011: Thanh tra GTVT lập biên bản 919 trường hợp, xử phạt 847 trường hợp, số tiền 419.545.000 đồng.

51. UBND tỉnh Đồng Tháp

Năm 2009: tổng số 2.605 trường hợp vi phạm, phạt tiền 2.617.772.000 đồng (đường bộ + đường thủy).

Năm 2010: tổng số 3.214 trường hợp vi phạm, phạt tiền 3.128.720.000 đồng (đường bộ + đường thủy).

Năm 2011: tổng số 3.278 trường hợp vi phạm, phạt tiền 3.533.500.000 đồng (đường bộ + đường thủy).

52. UBND tỉnh Cà Mau

Năm 2009: xử phạt 67.331 trường hợp vi phạm, số tiền 7.000.000.000 đồng, tước có thời hạn 12 bằng thuyền trưởng, 9.875 giấy phép lái xe, tạm giữ 11.037 phương tiện cơ giới đường bộ.

Năm 2010: xử phạt 70.574 trường hợp vi phạm, số tiền 8.500.000.000 đồng, tước có thời hạn 9 bằng thuyền trưởng, 7 chứng chỉ chuyên môn thủy nội địa, 9.931 giấy phép lái xe, tạm giữ 11.861 phương tiện cơ giới đường bộ.

Năm 2011: xử phạt 68.359 trường hợp vi phạm, số tiền 19.000.000.000 đồng, tước có thời hạn 7 bằng thuyền trưởng, 2.254 giấy phép lái xe, tạm giữ 20.642 phương tiện cơ giới đường bộ.

53. UBND tỉnh Quảng Ninh

Năm 2009: xử phạt 191.242 trường hợp, số tiền 50.004.180.000 đồng.

Năm 2010: xử phạt 173.161 trường hợp, số tiền 64.812.294.119 đồng.

Năm 2011: xử phạt 188.007 trường hợp, số tiền 75.665.653.600 đồng.

Văn bản gốc
(Không có nội dung)
Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!

Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...

Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Văn bản tiếng Anh
(Không có nội dung)
LawNet .vn
Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!

Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...

Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
LawNet .vn
Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!

Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...

Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
LawNet .vn
Không có nội dung
  • Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}
    Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}
    Tình trạng: {{m.TinhTrang}}
    Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
    Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}
    Tình trạng: {{m.TinhTrang}}
    Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!

Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...

Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
LawNet .vn
Không có nội dung
  • Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}
    Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}
    Tình trạng: {{m.TinhTrang}}
    Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
    Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}
    Tình trạng: {{m.TinhTrang}}
    Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!

Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...

Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
{{VBModel.Document.News_Subject}}
LawNet .vn
Bạn Chưa Đăng Nhập Tài khoản!

Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...

Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Đăng nhập
Tra cứu nhanh
Từ khóa
Bài viết Liên quan Văn bản
Văn bản khác