Kế hoạch 471/KH-UBND năm 2018 về phát triển kinh tế tập thể năm 2019 do tỉnh An Giang ban hành
Kế hoạch 471/KH-UBND năm 2018 về phát triển kinh tế tập thể năm 2019 do tỉnh An Giang ban hành
Số hiệu: | 471/KH-UBND | Loại văn bản: | Kế hoạch |
Nơi ban hành: | Tỉnh An Giang | Người ký: | Lê Văn Nưng |
Ngày ban hành: | 02/08/2018 | Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật | Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
Số hiệu: | 471/KH-UBND |
Loại văn bản: | Kế hoạch |
Nơi ban hành: | Tỉnh An Giang |
Người ký: | Lê Văn Nưng |
Ngày ban hành: | 02/08/2018 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Ngày công báo: | Đang cập nhật |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Tình trạng: | Đã biết |
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 471/KH-UBND |
An Giang, ngày 02 tháng 8 năm 2018 |
VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2019
Thực hiện Công văn số 4626/BKHĐT-HTX ngày 09 tháng 7 năm 2018 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể (KTTT) năm 2019;
Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch phát triển KTTT, HTX năm 2019 như sau:
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KTTT NĂM 2018
I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX
1. Đánh giá dựa trên các chỉ tiêu về hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
a) Về số lượng, doanh thu và thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác (HTX, LH HTX, THT)
- Về số lượng: Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2018, toàn tỉnh có 174 HTX, cụ thể như sau:
+ HTX lĩnh vực Nông nghiệp: 125 HTX, chiếm tỷ lệ 71,84%;
+ Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND): 24 QTDND, chiếm tỷ lệ 13,79%;
+ HTX lĩnh vực Giao thông vận tải: 18 HTX, chiếm tỷ lệ 10,34%;
+ HTX lĩnh vực Tiểu thủ công nghiệp: 04 HTX, chiếm tỷ lệ 2,30%;
+ HTX lĩnh vực Du lịch: 02 HTX, chiếm tỷ lệ 1,15%;
+ HTX lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường (khai thác cát): 01 HTX, chiếm tỷ lệ 0,57%.
- Số HTX thành lập mới: Trong 6 tháng đầu năm, thành lập mới 02 HTX; dự kiến đến cuối tháng 7 sẽ thành lập thêm 02 HTX.
- Số HTX đang hoạt động 155 HTX, chiếm 89,59% tổng số HTX, trong đó Nông nghiệp, thủy sản: 111 HTX; QTDND: 24 HTX; Giao thông vận tải: 13 HTX; Tiểu thủ công nghiệp: 04 HTX; Du lịch: 02 HTX; Tài nguyên môi trường: 01 HTX.
- Tình hình đăng ký lại HTX theo Luật HTX năm 2012: có 114/131 HTX (chiếm 87,02%) đã chuyển đổi hoạt động theo Luật HTX năm 2012; có 18 HTX hoạt động yếu kém hoặc ngưng hoạt động (trong đó có 14 HTX NN) nhưng chưa làm thủ tục giải thể theo quy định.
- Tổng doanh thu, lợi nhuận bình quân của HTX, LH HTX:
+ Tổng doanh thu bình quân của một HTX: 5.000 triệu đồng/năm;
+ Tổng lợi nhuận bình quân của một HTX: 900 triệu đồng/năm.
- Đóng góp của khu vực HTX vào GDRP của tỉnh năm 2017 là 1.193 tỷ đồng, chiếm 1,62% GRDP của tỉnh. Kết quả của 6 tháng đầu năm 2018, ước đạt hơn 50% của năm 2017.
* Về số lượng, doanh thu và thu nhập của THT: Có 810 THT đang hoạt động, giảm 14 THT so với năm 2017.
Doanh thu bình quân của một THT ước đến cuối năm 2017 trên 95 triệu đồng/năm, lợi nhuận bình quân của một THT 35,6 triệu đồng/năm. Thu nhập bình quân một thành viên THT là 1,9 triệu đồng/tháng.
b) Về thành viên, lao động của HTX, LH HTX, THT
- Số thành viên HTX trên toàn tỉnh đến thời điểm hiện tại là 139.381 thành viên. Tổng số thành viên tham gia HTX NN là 11.081 thành viên, trong đó cá nhân 4.811 người, pháp nhân 46, hộ gia đình 6.175; có khoảng 50% số thành viên sử dụng các dịch vụ của HTX NN. Số thành viên THT: 16.184 thành viên.
- Tổng số lao động làm việc thường xuyên trong HTX, LH HTX là 4.564 lao động.
- Thu nhập bình quân của thành viên, lao động của HTX, LH HTX: 40 - 48 triệu đồng/năm, ước đạt kế hoạch năm 2018.
c) Về trình độ cán bộ quản lý HTX, LH HTX, THT
- Tổng số cán bộ quản lý HTX, LH HTX: 1.104 người, trong đó:
+ Tổng số cán bộ quản lý HTX, LH HTX đạt trình độ sơ cấp, trung cấp là 890 người chiếm 80,61% tổng số cán bộ HTX, LH HTX.
+ Tổng số cán bộ quản lý HTX, LH HTX đạt trình độ cao đẳng, đại học là 214 người chiếm 19,38% so với tổng số cán bộ HTX, LH HTX.
- Tổng số cán bộ quản lý THT toàn tỉnh là 2.430 người, đa số có trình độ sơ cấp, trung cấp.
2. Đánh giá lĩnh vực
a) Lĩnh vực nông nghiệp
- Về quy mô, số lượng:
+ Số lượng HTX NN (tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2018): 124 HTX và 01 LH HTX. Trong đó, có 111 HTX đang hoạt động (110 HTX NN, 01 HTX NTTS) và 14 HTX ngưng hoạt động nhưng chưa tiến hành giải thể.
Từ năm 2017 đến nay, thành lập mới 20 HTX NN (TP. Long Xuyên: 01, TP. Châu Đốc: 01; thị xã Tân Châu: 01; huyện An Phú: 02; huyện Thoại Sơn: 05; huyện Chợ Mới: 03; huyện Tri Tôn: 04; huyện Châu Thành: 02; huyện Tịnh Biên: 01).
+ Về thành viên: Tổng số thành viên là 11.081 thành viên.
+ Số lao động làm việc thường xuyên trong HTX khoảng 1.804 người.
+ Doanh thu bình quân của một HTX đang hoạt động ước đạt 1,9 tỷ đồng/năm. Lợi nhuận bình quân ước đạt 210 triệu đồng/HTX/năm. Tỷ lệ chia lãi trên vốn góp bình quân của một thành viên là 02 - 03%/tháng. Thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX khoảng 24 triệu đồng/năm.
+ Về quy mô hoạt động của HTX: Trong 111 HTX NN đang hoạt động có 18 HTX thực hiện từ 04 dịch vụ trở lên; 32 HTX hoạt động từ 02 - 03 dịch vụ, số còn lại chỉ hoạt động 01 dịch vụ. Phần lớn các HTX NN của tỉnh hoạt động dịch vụ bơm tưới, bơm tiêu là chủ yếu. Tổng diện tích HTX phục vụ bơm tưới khoảng 37.192 ha. Trong đó, HTX phục vụ cho thành viên 9.000 ha (chiếm 24,2%), phục vụ bên ngoài 28,192 ha (chiếm 75,8%).
Ngoài ra, các HTX còn thực hiện thêm các dịch vụ như tín dụng nội bộ (có 20 HTX), cung ứng vật tư nông nghiệp (có 19 HTX), tiêu thụ nông sản (có 13 HTX) và nhân giống lúa (có 08 HTX). Dịch vụ mà các HTX cung cấp cho thành viên (bơm tưới, cày xới, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tín dụng nội bộ, sấy, xay xát...) ngày một chất lượng hơn, kịp thời hơn.
- Đánh giá tác động của loại hình HTX tới kinh tế hộ thành viên:
+ KTTT trên địa bàn tỉnh đã có bước khởi sắc, từng bước củng cố lại và hoạt động hiệu quả hơn, cụ thể là sau khi Luật HTX năm 2012 ra đời, các HTX từng bước được tổ chức lại hoạt động theo hướng mới. Các HTX đã quan tâm đến công tác mở rộng thành viên, mở rộng các dịch vụ và giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn, tạo thu nhập ổn định cho thành viên tham gia góp vốn.
+ Các HTX NN hoạt động trên địa bàn các xã nông thôn mới hoạt động tương đối ổn định, làm rất tốt dịch vụ bơm tưới và một số dịch vụ khác với mức thu phí thấp hơn dịch vụ do tư nhân cung cấp (giá rẻ hơn khoảng 20%) nên giúp giảm đáng kể chi phí sản xuất cho nông dân. Bên cạnh đó, HTX còn tham gia đóng góp tích cực vào các phong trào nhân đạo, xã hội ở địa phương. Từ đó, cho thấy KTTT chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng và toàn diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh.
+ Các HTX thời gian qua hoạt động tương đối có hiệu quả, bước đầu góp phần giải quyết đầu ra của sản phẩm nông nghiệp nên được người dân đồng tình ủng hộ, tạo được niềm tin cho thành viên, góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân về loại hình kinh tế hợp tác.
+ Đa số các HTX NN có áp dụng quy trình canh tác tốt như 01 phải 05 giảm, 03 giảm 03 tăng, từ đó góp phần làm giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho thành viên.
b) Lĩnh vực Công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp
- Về quy mô, số lượng:
+ Số lượng HTX: 04 HTX.
+ Số lượng thành viên tham gia: 152 thành viên.
+ Tổng số lao động thường xuyên là 150 lao động.
+ Tổng doanh thu bình quân của HTX trên 3,5 tỷ đồng/năm.
+ Lãi bình quân của HTX là 500 triệu đồng/năm.
+ Thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX là 36 triệu đồng/năm.
- Đánh giá tình hình hoạt động:
+ HTX Tiểu thủ công nghiệp hoạt động trong các ngành thêu may xuất khẩu, thủ công mỹ nghệ. Đa số hoạt động có hiệu quả tốt, sản phẩm xuất khẩu ổn định ra nhiều nước trên thế giới, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều lao động, nhất là lao động nữ, lao động là người dân tộc thiểu số (Chăm, Khmer).
+ Tuy nhiên, số lượng HTX Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn rất ít, chưa phát triển, quy mô nhỏ, sản phẩm nhỏ lẻ, sản xuất chủ yếu là tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống... nên giá trị gia tăng thấp, tỷ lệ đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của HTX chiếm tỉ lệ không lớn.
c) Lĩnh vực Giao thông vận tải
- Về quy mô, số lượng:
+ Từ đầu năm 2018 đến nay thành lập mới 01 HTX. Lũy kế số lượng HTX, LH HTX trong toàn tỉnh: 18 HTX và 01 LH HTX, trong đó: 05 HTX ngừng hoạt động; 01 LH HTX đã giải thể.
+ Số lượng thành viên: 1.321 thành viên.
+ Số lượng lao động làm việc thường xuyên: 2.125 người.
+ Thu nhập trung bình của một lao động làm việc thường xuyên trong HTX Giao thông vận tải là 54 triệu đồng/năm.
- Đánh giá tình hình hoạt động:
+ Hoạt động của HTX Giao thông vận tải còn nhiều hạn chế do quy mô nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp do chi phí luôn biến động, đặt biệt là giá xăng dầu liên tục thay đổi. Trong khi đó giá cước vận tải rất khó điều chỉnh do phải cạnh tranh rất lớn từ các thành phần kinh tế khác (trừ các ngày lễ, tết).
+ Vấn đề đổi mới phương tiện của HTX gặp nhiều khó khăn, trong khi các nguồn vốn vay ưu đãi dành cho HTX Giao thông vận tải còn hạn chế, do vậy các HTX rất chậm đổi mới phương tiện. Hiện nay chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với HTX trên địa bàn lĩnh vực này chủ yếu là hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX do Liên minh HTX tỉnh thực hiện.
d) Lĩnh vực Du lịch
- Số lượng HTX: 02 HTX.
- Tổng số thành viên: 28 thành viên.
- Tổng số lao động thường xuyên: 05 lao động.
HTX Du lịch tiếp tục phát triển mô hình du lịch Homestay (ăn, nghỉ, vui chơi tại nhà của thành viên HTX). Loại hình du lịch này đang có xu hướng phát triển tại tỉnh An Giang.
đ) Lĩnh vực Khai thác khoáng sản
- Số lượng HTX: 01 HTX.
- Tổng số thành viên: 36 thành viên.
- Tổng số lao động thường xuyên: 10 lao động, trong đó số lao động là thành viên 05 lao động và thuê ngoài là 05 lao động.
e) Lĩnh vực Tín dụng
- Về quy mô, số lượng:
+ Tổng số QTDND là 24, số lượng này ổn định từ năm 2007 đến nay.
+ Về thành viên: có 702 thành viên mới gia nhập, rút khỏi QTDND 1.015 thành viên. Đến cuối tháng 6 năm 2018, có 126.077 thành viên, trong đó thành viên cá nhân là 126.076 người.
+ Tổng số lao động làm việc thường xuyên tại QTDND là 658 người, bình quân có 27 lao động làm việc tại mỗi QTDND.
+ Doanh thu bình quân đạt 1.253 triệu đồng/QTDND, so với năm 2017 đạt 39,9%. Tỷ trọng doanh thu đối với thành viên của QTDND khoảng 95,7% tổng doanh thu. Lãi bình quân 488 triệu đồng/QTDND, so với năm 2017 đạt 32,82%. Thu nhập bình quân của mỗi lao động 6 tháng đầu năm 2018 khoảng 34,5 triệu đồng.
- Đánh giá tình hình hoạt động:
+ Hoạt động của QTDND đã đáp ứng một phần nhu cầu vay vốn cho phần lớn bà con ở địa bàn nông thôn do thủ tục nhanh chóng hơn so với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, các QTDND hoạt động ngày càng gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với các ngân hàng thương mại trong việc huy động vốn, lãnh suất cho vay…
+ Do không có nguồn huy động trung hạn, dài hạn lớn nên hoạt động của QTDND chủ yếu là cho vay ngắn hạn và chưa đủ điều kiện mở thêm các dịch vụ kinh doanh khác. Các chỉ tiêu (vốn huy động, doanh thu, lợi nhuận) đều giảm so với năm 2016, nhưng nhìn chung hoạt động của các QTDND năm 2017 khá ổn định, có thu nhập để bù đắp chi phí và có tích lũy, tạo công ăn việc làm cho người lao động tại QTDND, góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi, đóng góp vào ngân sách nhà nước, đồng thời góp phần thực hiện công tác an sinh xã hội ở địa bàn nơi QTDND hoạt động.
g) Đối với THT:
- Về lĩnh vực hoạt động của THT: Trồng trọt 273 THT với 5.976 thành viên, diện tích 6.815,72 ha; chăn nuôi 193 THT, 2501 thành viên, diện tích 937,926 ha; dịch vụ nông nghiệp 156 THT, 3216 thành viên, diện tích 76.670,9 ha, dịch vụ phi nông nghiệp 188 THT, 4.491 thành viên, diện tích 2.893,4 ha.
- Đánh giá chung về tình hình hoạt động của THT:
+ Trình độ của thành viên Ban quản lý một số THT chưa đáp ứng được tình hình mới, thiếu tự chủ trong điều hành hoạt động. Việc xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh của THT chưa khả thi nên huy động vốn của thành viên gặp khó khăn.
+ Nhận thức của nông dân về KTTT còn hạn chế, chưa mạnh dạn tham gia vào THT. Quy mô THT còn nhỏ, vốn, tài sản ít, nội dung hợp tác mới dừng lại ở khâu kỹ thuật và dịch vụ “đầu vào” cho sản xuất, chưa mở rộng sang thương mại và dịch vụ sản phẩm “đầu ra”, hoạt động đơn điệu thiếu bền vững.
+ Ở một số xã, phường, thị trấn, Hội Nông dân chưa tranh thủ được sự ủng hộ của cấp ủy và chính quyền nên còn hạn chế trong việc hướng dẫn hỗ trợ thành lập mới, củng cố THT.
+ Nhìn chung, việc phát triển THT còn mang tính tự phát, tổ chức thiếu chặt chẽ, thời gian hợp đồng hợp tác quá ngắn, quỹ hoạt động rất ít hoặc không có nên gặp nhiều khó khăn trong giao dịch kinh tế, thụ hưởng các chính sách của Nhà nước.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KTTT
1. Kết quả triển khai Luật HTX năm 2012 và văn bản hướng dẫn thi hành
a) Về việc xây dựng, ban hành văn bản tổ chức thực hiện Luật HTX năm 2012
Từ đầu năm đến nay, các ngành, các cấp của tỉnh đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản tổ chức thực hiện, hướng dẫn thực hiện Luật HTX năm 2012, cụ thể:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Chỉ thị số 447/CT-UBND ngày 06 tháng 02 năm 2018 về tăng cường thực hiện các giải pháp củng cố, phát triển HTX trên địa bàn tỉnh An Giang và Kế hoạch số 270/KH-UBND ngày 30 tháng 5 năm 2018 về tăng cường thực hiện các giải pháp củng cố, phát triển HTX trên địa bàn tỉnh An Giang.
- Trong cải cách thủ tục hành chính, Ủy ban nhân dân tỉnh có Quyết định số 443/QĐ-UBND ngày 05 tháng 3 năm 2018 về việc công bố Bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền của Sở Kế hoạch và Đầu tư trong đó có lĩnh vực HTX theo Luật HTX năm 2012.
b) Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật HTX năm 2012
- Thực hiện tốt công tác phổ biến, tuyên truyền Kết luận 56-KL/TW ngày 21 tháng 02 năm 2013 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; Luật HTX năm 2012 và các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành cho cán bộ quản lý, điều hành HTX; vận động nhân dân, hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức kinh tế tham gia và thành lập HTX.
- Đã thành lập Tổ tư vấn củng cố và phát triển HTX trực thuộc Liên minh HTX tỉnh. Tổ tư vấn với 08 thành viên là lực lượng nòng cốt để triển khai các chính sách, pháp luật đến HTX trong toàn tỉnh, hỗ trợ trực tiếp tại cơ sở về nghiệp vụ, đồng thời nắm bắt hoạt động của HTX để kịp thời thông tin đến các Sở, ngành chức năng để định hướng, tháo gỡ các khó khăn của HTX.
2. Công tác quản lý nhà nước về KTTT
- Thực hiện Thông tư liên tịch số 21/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 11 tháng 12 năm 2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nội vụ về kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Kế hoạch và Đầu tư, ngày 06/5/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã ban hành Quyết định số 23/2016/QĐ-UBND ban hành Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh An Giang, trong đó xây dựng Phòng Doanh nghiệp, Kinh tế tập thể và tư nhân thuộc Sở với 05 biên chế, có nhiệm vụ tham mưu, tổng hợp, đề xuất các mô hình và cơ chế, chính sách, kế hoạch phát triển KTTT, HTX; hướng dẫn, theo dõi, tổng hợp và đánh giá tình hình thực hiện các chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển KTTT, HTX và hoạt động của các tổ chức KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh.
- Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhiệm vụ tham mưu cơ chế, chính sách, biện pháp khuyến khích phát triển nông thôn; phát triển kinh tế hợp tác, HTX nông, lâm, thủy sản gắn với ngành nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn cấp xã thuộc trách nhiệm của Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh An Giang (theo Quyết định số 32/2009/QĐ-UBND ngày 31 tháng 8 năm 2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang).
Riêng các Sở, ngành, đoàn thể khác của tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện đến nay chưa bố trí được cán bộ hoặc Tổ chuyên trách về KTTT, chủ yếu vẫn là kiêm nhiệm. Đội ngũ cán bộ quản lý KTTT ở các xã, phường, thị trấn thiếu thông tin, kiến thức trong lĩnh vực KTTT.
- Ngày 06 tháng 02 năm 2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 447/CT-UBND chỉ đạo các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh phải thành lập và củng cố Ban Chỉ đạo phát triển KTTT cấp huyện; chỉ đạo UBND cấp xã, phường, thị trấn phân công cán bộ kiêm nhiệm về kinh tế hợp tác. Đây được xem là giải pháp quan trọng có tính quyết định để thúc đẩy KTTT, HTX tại địa phương phát triển.
3. Kết quả triển khai chính sách hỗ trợ, ưu đãi HTX
- Thực hiện Điều 6 Luật HTX năm 2012, Nghị định số 193/2013/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015 - 2020, tỉnh đã triển khai thực hiện các nhiệm vụ như sau:
+ Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực: Giai đoạn 2017 - 2018, việc phát triển HTX được thực hiện chủ yếu từ nguồn vốn sự nghiệp thuộc Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Tổng kế hoạch vốn sự nghiệp để thực hiện nội dung này từ Ngân sách Trung ương là: 1.330 triệu đồng, trong đó: Năm 2017 đã phân bổ 660 triệu đồng; Kế hoạch vốn năm 2018 là 670 triệu đồng.
Ngày 22 tháng 5 năm 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1123/QĐ-UBND về việc phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư năm 2018 nguồn vốn ngân sách Trung ương thực hiện Chương trình MTQG trên địa bàn tỉnh (đợt 1), theo đó cấp kinh phí cho năm 2018 là 380 triệu đồng để hỗ trợ 10 HTX không thuộc Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 21 tháng 3 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ (mỗi HTX có 01 lao động trẻ) trên địa bàn tỉnh.
+ Hỗ trợ tài chính (cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng): Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 28 tháng 02 năm 2018 về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường tỉnh An Giang, trong đó nhiệm vụ của Quỹ sẽ thực hiện “Hỗ trợ tài chính (cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh tín dụng) cho cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, HTX, LH HTX thực hiện sản xuất kinh doanh thuộc 08 nhóm sản phẩm nông nghiệp được quy hoạch sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao của tỉnh quy định tại Điều 14 Nghị quyết số 40/2016/NQ-HĐND”.
Vốn Điều lệ hoạt động của Quỹ là 100 tỷ đồng do ngân sách tỉnh cấp trong 03 năm (2018 - 2020). Trong đó, năm 2018 ngân sách tỉnh đã bố trí dự toán để bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ bảo vệ môi trường số tiền 60 tỷ đồng tại Quyết định số 1094/QĐ-UBND ngày 17 tháng 5 năm 2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
+ Chính sách khuyến khích phát triển, hợp tác, liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn
Triển khai Nghị quyết số 13/2015/NQ-HĐND ngày 10 tháng 12 năm 2015 Hội đồng nhân dân tỉnh về việc quy định mức chi hỗ trợ đối với chính sách khuyến khích phát triển, hợp tác, liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn theo Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên địa bàn tỉnh An Giang, ngày 08 tháng 5 năm 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1004/QĐ-UBND về việc phê duyệt “Phương án xây dựng cánh đồng lớn của Công ty TNHH MTV Lương thực Thoại Sơn giai đoạn 2018 - 2022”.
Tổng nhu cầu vốn đầu tư phương án cánh đồng lớn là: 920.201,7 triệu đồng, cụ thể như sau: Vốn Công ty: 767.212 triệu đồng (83,37%); Vốn người dân: 141.732 triệu đồng (15,40%); Vốn HTX NN: 133 triệu đồng (0,01%); Vốn NSNN: 11.124,7 triệu đồng (1,21%).
+ Chính sách thành lập mới HTX, LH HTX: Tổ chức nhiều đợt tư vấn, hỗ trợ miễn phí cho các HTX về Quy trình tuyên truyền, vận động thành lập HTX; công tác tổ chức Đại hội HTX; công tác kế toán HTX mà chủ yếu là các HTX NN, vận tải, tiểu thủ công nghiệp.
+ Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng: Triển khai thực hiện Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015 - 2020, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 24/NQ-HĐND ngày 08 tháng 12 năm 2017 về quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án nhóm B và dự án trọng điểm nhóm C sử dụng vốn đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020, trong đó có dự án này, với quy mô đầu tư 10 HTX với tổng kinh phí đầu tư là 31.171 triệu đồng, trong đó: ngân sách tỉnh hỗ trợ 20.000 triệu đồng, vốn đối ứng của HTX và vốn huy động hợp pháp là 11.171 triệu đồng, do Liên minh HTX tỉnh làm chủ Chương trình.
Phạm vi hỗ trợ bao gồm sân phơi, nhà kho (có gắn với nơi làm việc của HTX), xưởng sơ chế, chế biến, điện, nước sinh hoạt, chợ, công trình thủy lợi, cơ sở hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản, cửa hàng vật tư nông nghiệp, giao thông nội đồng. Ngân sách tỉnh hỗ trợ tối đa không quá 02 tỷ đồng/HTX (hỗ trợ theo nguyên tắc: nhà nước hỗ trợ 80%, HTX đóng góp 20%).
Hiện tại, tỉnh đang triển khai Chương trình hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng của HTX nông, lâm, ngư nghiệp tỉnh An Giang cho 10 HTX NN trong tỉnh. Trong đó, đã hỗ trợ cho 03 HTX NN (HTX NN Phú An; HTX NN Phú Thạnh, HTX NN An Bình) đầu tư kết cấu hạ tầng với số tiền 4,6 tỷ đồng.
+ Chính sách giao đất, cho thuê đất: Hỗ trợ HTX NN để được các cơ quan chức năng giao đất, cho thuê đất với giá ưu đãi cho HTX xây dựng trụ sở (Quyết định số 977/QĐ-UBND ngày 04 tháng 5 năm 2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc chuyển mục đích sử dụng đất của HTX NN Phú Thạnh).
+ Chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của HTX với doanh nghiệp: Tỉnh đang tích cực hỗ trợ Công ty CP Rau quả Thực phẩm An Giang (Antesco) xây dựng HTX NN tạo nguồn nguyên liệu cho Công ty. Tiếp tục hỗ trợ xây dựng LH HTX tiêu thụ lúa gạo để tham gia chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm của tỉnh An Giang.
Ngày 01 tháng 3 năm 2018, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định phê duyệt số 416/QĐ-UBND phê duyệt kinh phí hỗ trợ thực hiện dự án “Xây dựng mô hình sản xuất xoài ba màu có quy mô 500 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP gắn với chuỗi tiêu thụ sản phẩm”, theo đó mở rộng diện tích HTX Xoài VietGAP huyện Chợ Mới - An Giang (thêm 500 ha), với tổng kinh phí thực hiện dự án là 29.358.042.000 đồng, trong đó: Nguồn sự nghiệp khoa học hỗ trợ: 2.699.780.000 đồng; Kinh phí từ các nguồn khác: 26.658.262.000 đồng.
4. Hợp tác quốc tế về KTTT
- Tiếp tục phối hợp với tổ chức SOCODEVI (Canada) thực hiện chương trình chung tay phát triển HTX giai đoạn 2013 - 2018.
- Triển khai Quyết định số 4229/QĐ-BNN-KH ngày 26 tháng 10 năm 2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (dự án VnSAT) vốn vay Ngân hàng Thế giới và Quyết định số 2539/QĐ-UBND ngày 09 tháng 11 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT) tỉnh An Giang, theo đó, tổng kinh phí thực hiện kế hoạch năm 2018 trên địa bàn tỉnh là 67.527 triệu đồng:
+ Vốn ngân sách tỉnh: 15.000 triệu đồng;
+ Vốn ODA: 45.000 triệu đồng;
+ Vốn tư nhân: 7.527 triệu đồng.
III. CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Những bất cập của pháp luật HTX hiện hành
- Về tên gọi của các cơ quan quản lý điều hành trong Luật HTX năm 2012 không còn gọi là Đại hội xã viên, Ban quản trị mà sử dụng các tên gọi giống như mô hình tổ chức của doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 (nay là Luật Doanh nghiệp 2014) là không phù hợp và mâu thuẫn với chính mục đích của Luật HTX. Luật HTX năm 2012 đã khẳng định HTX không phải là doanh nghiệp, có bản chất hoạt động không giống doanh nghiệp.
- Người đại diện theo pháp luật của HTX chỉ là Chủ tịch Hội đồng quản trị. Quy định này của Luật HTX năm 2012 là khá cứng nhắc, có thể làm cho vai trò của Tổng Giám đốc/Giám đốc HTX mờ nhạt, không phát huy sự chủ động và tính chịu trách nhiệm của vị trí quản lý này. Đề nghị điều chỉnh Luật HTX theo hướng cho phép HTX có quyền đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh để có hơn một người đại diện theo pháp luật nhằm tạo thuận lợi trong quá trình điều hành, sản xuất kinh, kinh doanh của đơn vị.
- Quy định mở rộng cho người nước ngoài cư trú tại Việt Nam được làm thành viên HTX có thể dẫn tới nguy cơ người nước ngoài thành lập HTX tại Việt Nam, tận dụng các lợi thế và các chính sách ưu đãi đối với HTX để kinh doanh và có thể gây thiệt hại cho các chủ thể khác, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Các quy định của Luật HTX hiện hành chưa quy định việc đăng ký chuyển đổi từ loại hình THT sang HTX hoặc giữa HTX chuyển sang loại hình công ty TNHH, công ty cổ phần hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Hiện nay, các chủ thể này vẫn phải làm thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động, sau đó mới tiến hành đăng ký thành lập mới HTX hoặc đăng ký thành lập công ty TNHH, công ty cổ phần.
- Về tín dụng nội bộ của HTX
+ Khoản 6 Điều 8 Luật HTX năm 2012 quy định: “Điều 8. Quyền của HTX, LH HTX: 6. Tăng, giảm vốn điều lệ trong quá trình hoạt động; huy động vốn và hoạt động tín dụng nội bộ theo quy định của pháp luật”.
+ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 06/2004/TT-NHNN ngày 27 tháng 9 năm 2004 hướng dẫn về tín dụng nội bộ HTX và Thông tư số 04/2007/TT-NHNN ngày 13 tháng 6 năm 2007 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 06/2004/TT-NHNN.
Ngày 28 tháng 6 năm 2017, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Thông tư số 04/2017/TT-NHNN bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành, liên tịch ban hành, trong đó có Thông tư số 06/2004/TT-NHNN và Thông tư số 04/2007/TT-NHNN.
Thông tư số 24/2017/TT-BTC ngày 28 tháng 3 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn Chế độ kế toán HTX, LH HTX, có nghiệp vụ kế toán về hoạt động tín dụng nội bộ; có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
+ Đến nay, Bộ, ngành Trung ương chưa ban hành văn bản pháp quy thực hiện Khoản 6 Điều 8 Luật HTX năm 2012 về hoạt động tín dụng nội bộ, cho nên địa phương gặp nhiều lúng túng khi hướng dẫn các HTX thực hiện hoạt động nghiệp vụ này.
- Liên quan đến tổ chức và hoạt động của QTDND: Tổng mức góp vốn tối đa của một thành viên QTDND không được vượt quá 10% vốn điều lệ của QTDND tại thời điểm góp vốn theo Thông tư số 04/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 3 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là quá thấp và không phù hợp với Điều 27 Luật HTX năm 2012 quy định không quá 20%.
+ Việc cho vay thành viên có hộ khẩu thường trú trên địa bàn hoạt động của QTDND cũng là một trở ngại khó khăn. Tại Điều 21 Nghị định số 69/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của QTDND đã nêu điều kiện trở thành thành viên là “Cá nhân là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, làm việc hoặc sản xuất, kinh doanh hợp pháp trên địa bàn hoạt động của QTDND” và tại Điểm a, Điểm b Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng xác định nơi cư trú của đối tượng khi vay vốn (nhưng lại không nói rõ là tạm trú hay thường trú) nên QTDND gặp khó khăn khi cho vay.
+ Theo Khoản 1 Điều 28 Thông tư số 04/2015/TT-NHHN ngày 31 tháng 3 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định về QTDND, người dân vay vốn tại QTDND phải đóng góp 300 ngàn đồng (phí xác lập thành viên) và 100 ngàn đồng (vốn góp thường niên), Tuy nhiên, nếu người dân vay các ngân hàng thương mại thì không cần phải đóng các khoản tiền này, điều này đã gây khó khăn cho QTDND trong hoạt động.
An Giang là tỉnh nông nghiệp, nông dân thường vay số tiền nhỏ lẻ, dao động phổ biến từ 10 đến 50 triệu đồng mà phải đóng phí 400 ngàn đồng, điều này làm cho lãi suất sau khi giải ngân tăng lên.
2. Về tổ chức và việc thực hiện chế độ thống kê, báo cáo
Việc phối hợp thực hiện chế độ báo cáo về HTX, LH HTX các đơn vị của tỉnh làm khá tốt, kịp thời để báo cáo đến các cấp thẩm quyền. Tuy nhiên, số liệu HTX, LH HTX chưa có sự thống nhất giữa các địa phương và các Sở, ngành chuyên môn quản lý nhà nước đối với HTX, LH HTX, cho nên công tác thống kê, tổng hợp gặp nhiều khó khăn.
3. Về nguồn vốn đầu tư, phát triển HTX
- Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015 - 2020, có nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực cho HTX, LH HTX. Tuy nhiên, Bộ, ngành Trung ương chậm ban hành văn bản pháp quy triển khai thi hành Quyết định số 2261/QĐ-TTg; nguồn lực phân bổ của Trung ương cho địa phương hết sức hạn chế.
- Căn cứ Công văn số 10091/BKHĐT-HTX ngày 05 tháng 12 năm 2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng nhu cầu hỗ trợ phát triển HTX năm 2017 và giai đoạn 2017 - 2020, Ủy ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ cho Sở Kế hoạch và Đầu tư có Công văn số 1936A/SKHĐT-DN ngày 07 tháng 12 năm 2016 đăng ký nhu cầu cầu hỗ trợ phát triển HTX năm 2017 và giai đoạn 2017 - 2020: Tổng nhu cầu đầu tư giai đoạn 2017 - 2020 là 65.171 triệu đồng, trong đó: nguồn vốn sự nghiệp ngân sách trung ương hỗ trợ là 4.000 triệu đồng; nguồn vốn đầu tư phát triển là 61.171 triệu đồng, gồm: ngân sách trung ương là 44.000 triệu đồng, ngân sách địa phương 8.586 triệu đồng, các nguồn vốn khác là 8.585 triệu đồng.
Đến nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chưa có văn bản chính thức phản hồi về nguồn vốn này.
- Ngày 17 tháng 02 năm 2017, Văn phòng Chính phủ có Thông báo số 83/TB-VPCP truyền đạt kết luận của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ tại cuộc họp về sửa đổi Nghị định số 193/2013/NĐ-CP và thành lập Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển KTTT, HTX. Tại Khoản 2 Mục I của Văn bản có nêu: “2. Về chính sách hỗ trợ cho HTX NN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan rà soát Chương trình hỗ trợ HTX theo Quyết định số 2261/QĐ- TTg ngày 15 tháng 12 năm 2014, đề xuất phương án trình Chính phủ, Quốc hội bố trí kinh phí (dòng ngân sách riêng) hỗ trợ cho khu vực HTX năm 2018 và các năm tiếp theo để thực hiện”. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có thông tin về việc Quốc hội bố trí kinh phí (dòng ngân sách riêng) hỗ trợ cho khu vực HTX năm 2018 và các năm tiếp theo.
- Thực hiện thí điểm mô hình đưa lao động trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn tại HTX NN. Tổng kinh phí tỉnh đề nghị hỗ trợ là 6.590 triệu đồng từ ngân sách Trung ương, trong đó: Hỗ trợ 08 HTX tham gia thí điểm theo Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 21 tháng 3 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tại vùng đồng bằng sông Cửu Long” là 2.031 triệu đồng; hỗ trợ 18 HTX thí điểm theo Đề án đổi mới phát triển HTX trong nông nghiệp tỉnh An Giang giai đoạn 2017 - 2020 (trong 18 HTX có 15 HTX hoạt động trên địa bàn xã có lộ trình đạt tiêu chí nông thôn mới) là 4.559 triệu đồng.
Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có Công văn số 401/BNN-KTHT ngày 16 tháng 01 năm 2018 hướng dẫn các tỉnh thực hiện bồi dưỡng nguồn nhân lực cho HTX NN năm 2018, theo đó thí điểm trong năm 2018 mỗi HTX chỉ hỗ trợ 01 cán bộ chuyên môn.
- Ngày 13 tháng 4 năm 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Công văn số 2367/BKHĐT-HTX về việc hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho HTX NN giai đoạn 2016 - 2020 phục vụ Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới.
Theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh có Công văn số 499/UBND-KTN ngày 14 tháng 5 năm 2018 báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư về tình hình bố trí, phân bổ các nguồn vốn hỗ trợ phát triển HTX tại địa phương giai đoạn 2016 - 2018 và đề xuất hỗ trợ 50 tỷ đồng để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho 02 HTX NN giai đoạn 2016 - 2020 phục vụ Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới trên địa bàn tỉnh An Giang. Tuy nhiên, hiện nay chưa có ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
4. Về năng lực nội tại của từng HTX, LH HTX
- Những yếu kém vốn có của HTX chậm được khắc phục như: Quy mô nhỏ lẻ, manh mún, khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, thiếu vốn hoạt động, hiệu quả kinh doanh thấp, dịch vụ còn đơn điệu, chưa đa dạng và chưa thật sự mở rộng so với tiềm năng.
- Giữa các HTX, LH HTX, chưa có sự hợp tác, liên kết ngang, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ cho nhau. Các HTX, LH HTX chưa chú trọng nâng cao giá trị, chất lượng nông sản, hàng hóa đồng thời quan tâm xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý đối với các sản phẩm, ngành hàng chủ lực.
- Trình độ nhân sự tham gia quản lý điều hành HTX, tổ hợp tác còn rất nhiều hạn chế. Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc HTX chưa có định hướng và hành động mang tính chiến lược và đột phá để phát triển, thiếu tính nhạy bén, năng động với thị trường.
5. Nguyên nhân của hạn chế, khó khăn
Những hạn chế chủ yếu trên có những nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Một là, công tác tuyên truyền phổ biến nội dung Nghị quyết, Luật, các văn bản pháp luật về KTTT, Chỉ thị của Tỉnh ủy, Đề án và Kế hoạch phát triển KTTT của Ủy ban nhân dân tỉnh tại các ngành, các cấp chưa được sâu rộng trong đông đảo tầng lớp Nhân dân, tới thành viên HTX, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Hai là, một số cơ quan, đơn vị chưa thật sự quan tâm đến công tác báo cáo, thống kê về tình hình phát triển HTX.
- Ba là, một vài nơi, cấp ủy Đảng, chính quyền, nhất là cấp xã, có biểu hiện can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ HTX; cấp huyện chưa quan tâm đúng mức về việc xây dựng Kế hoạch phát triển KTTT 05 năm và hàng năm; chưa lồng ghép vào Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của ngành, địa phương.
- Bốn là, trình độ quản lý HTX của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc còn hạn chế trong công tác tổ chức, trong việc mở rộng thêm dịch vụ và thu hút nguồn vốn từ việc kết nạp thêm xã viên mới của HTX, nguồn lực hỗ trợ phát triển HTX còn thấp. Một số HTX vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
- Năm là, việc quy định, hướng dẫn cơ chế, chính sách củng cố, nâng chất, hỗ trợ phát triển HTX từ Bộ, ngành Trung ương còn chậm.
Để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ phát triển KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh kiến nghị Bộ, ngành Trung ương một số nội dung sau:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm trình Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định số 151/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác.
2. Đề nghị Bộ, ngành Trung ương sớm đề xuất với Chính phủ phương án trình Quốc hội bố trí kinh phí (dòng ngân sách riêng) hỗ trợ cho khu vực HTX năm 2018 và các năm tiếp theo. Trung ương cần bổ sung trong kế hoạch trung hạn (giai đoạn 2016 - 2020) nguồn vốn thực hiện hỗ trợ phát triển KTTT, HTX.
Ngày 29 tháng 5 năm 2017, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có Công văn số 4342/BKHĐT-HTX về việc hỗ trợ phát triển HTX trong Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới có hướng dẫn các tỉnh sử dụng trong nguồn xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, kiến nghị Trung ương có nguồn riêng cho hỗ trợ HTX, không sử dụng chung trong nguồn vốn Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới.
3. Về tín dụng nội bộ của HTX, đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ, ngành Trung ương sớm văn bản hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động tín dụng nội bộ của HTX theo Khoản 6 Điều 8 Luật HTX năm 2012; sửa đổi Thông tư số 04/2015/TT-NHHN ngày 31 tháng 3 năm 2015 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về QTDND theo hướng khi thành viên vay vốn tại QTDND chỉ góp vốn 100 ngàn đồng cho phù hợp thực tế.
4. Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế cho HTX NN: Không thuộc đối tượng nộp thuế Giá trị gia tăng (VAT) đối với các giao dịch, mua bán, trao đổi của HTX NN với thành viên và giữa các HTX NN với nhau. Miễn thuế thu nhập cá nhân cho thành viên HTX NN đối với phần thu nhập có được từ góp vốn vào HTX NN.
5. Đề nghị Trung ương sớm xây dựng và chuẩn hóa nguồn dữ liệu quốc gia về KTTT. Tăng nguồn kinh phí cho công tác tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ, đào tạo định kỳ và truyền thông chuyên đề KTTT, HTX (báo, đài truyền hình, tọa đàm,...); có chính sách hỗ trợ cho cán bộ chuyên trách KTTT.
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2019
I. MỘT SỐ YÊU CẦU TRONG VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTTT NĂM 2019
1. Việc xây dựng Kế hoạch phát triển KTTT năm 2019 của các Sở, ban, ngành và địa phương phải phù hợp với Kế hoạch phát triển KTTT 05 năm giai đoạn 2016 - 2020 của tỉnh An Giang ban hành tại Quyết định số 1145/QĐ-UBND ngày 24 tháng 6 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 của tỉnh An Giang.
2. Phát triển KTTT phải xuất phát từ nhu cầu chung thực tế của các thành viên. Bên cạnh chỉ tiêu số lượng, việc phát triển KTTT, HTX phải đặc biệt chú trọng các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, hiệu quả.
3. Khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
II. NỘI DUNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTTT NĂM 2019
1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn
a) Thuận lợi
- Tăng trưởng kinh tế trong năm 2019 tiếp tục xu hướng cải thiện tích cực nhờ sự gia tăng hoạt động trong các lĩnh vực chế tạo, xây dựng, thương mại bán buôn và bán lẻ, ngân hàng và du lịch, đặc biệt là sự quan tâm của các doanh nghiệp lớn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Môi trường đầu tư kinh doanh trong nước được cải thiện, hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư tư nhân, giúp thúc đẩy sản xuất trong nước và thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực KTTT cùng phát triển.
- Khu vực nông, lâm, thủy sản dự báo có nhiều triển vọng phát triển hơn khi giá lương thực toàn cầu tăng, những tác động tiêu cực của thời tiết giảm bớt và những hoạt động cải cách, tái cơ cấu nông nghiệp bắt đầu có chuyển biến tích cực. Đây là điều kiện để tỉnh An Giang huy động nguồn lực của các tổ chức KTTT đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và phát triển nhanh mô hình cánh đồng lớn; thúc đẩy các doanh nghiệp, HTX tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Sau thời gian triển khai Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, bước đầu mang những tín hiệu tích cực; một số sản phẩm nông nghiệp mới (chuối, xoài... ) góp phần gia tăng giá trị sản xuất của ngành; các mô hình chăn nuôi theo hình thức trang trại, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến cho sản phẩm tăng ổn định. Thị trường tiêu thụ các loại nông sản có tín hiệu khả quan, giá cả ổn định ở mức hợp lý, kích thích các nhà đầu đầu tư, người nông dân mở rộng sản xuất… góp phần rất lớn trong tăng trưởng khu vực nông nghiệp nói riêng và tăng trưởng KTTT của tỉnh nói chung.
- Thực hiện vai trò kiến tạo, Chính phủ và Bộ, ngành Trung ương tiếp tục tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp, HTX trong quá trình hoạt động. Nhiều chính sách hỗ trợ mới của Trung ương và của tỉnh sẽ phát huy hiệu quả trong năm 2019.
b) Khó khăn
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, KTTT, HTX của cả nước và tỉnh An Giang nói riêng còn nhiều khó khăn, thách thức như:
- Khả năng tập hợp, liên kết, huy động vốn và tích tụ ruộng đất để phát triển gặp nhiều hạn chế. Trình độ nhân sự của khu vực KTTT, HTX còn thấp, thiếu tính nhạy bén, năng động với thị trường.
Trình độ sản xuất, việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật chưa nhiều; đổi mới công nghệ còn chậm; sản xuất nông nghiệp thiếu bền vững chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ, chưa có HTX chế biến sâu các sản phẩm từ nông nghiệp và thủy sản.
- Dự báo tình hình xuất khẩu các mặt hàng nông sản tiếp tục chịu sự chi phối của thị trường, chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ khi tham gia vào các cam kết tự do thương mại, gia tăng hàng rào kỹ thuật từ chính các nước nhập khẩu, chưa tận dụng tốt các ưu đãi từ các hiệp định thương mại đã ký.
- Về nguồn lực cho phát triển KTTT, HTX đã được Trung ương và địa phương quan tâm hỗ trợ trong thời gian qua nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kịp thời và đầy đủ so với nhu cầu đặt ra.
2. Định hướng chung về phát triển KTTT, HTX
Năm 2019, là năm giữa nhiệm kỳ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016 - 2020, có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016 - 2020. Vì vậy, các ngành và địa phương cần xác định rõ nhiệm vụ, yêu cầu để từ đó xây dựng Kế hoạch phát triển KTTT năm 2019 theo hướng tích cực, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế và điều kiện để duy trì mức tăng trưởng nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh một cách bền vững.
3. Mục tiêu tổng quát
- Phát triển KTTT đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc cơ bản của Luật HTX năm 2012, góp phần xây dựng xã hội hợp tác, đoàn kết, quản lý một cách dân chủ, góp phần thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn phát triển.
- Đến cuối năm 2019, đưa KTTT, HTX của tỉnh An Giang thoát khỏi tình trạng yếu kém và tăng trưởng ở mức độ khá; đủ năng lực nội tại để vừa phục vụ tốt cho thành viên vừa tham gia và đứng vững trên thị trường.
- Đổi mới toàn diện, phát triển đa dạng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KTTT, gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới; liên kết sản xuất theo hướng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và tiêu thụ theo mô hình “Cánh đồng lớn”. Phấn đấu đến năm 2020, khu vực KTTT, HTX có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh.
4. Một số mục tiêu cụ thể
a) Các chỉ tiêu định hướng phát triển
- Năm 2019, đóng góp của khu vực KTTT, HTX vào GDRP của tỉnh là 1.200 tỷ đồng, chiếm 1,65% GRDP của tỉnh.
- Số lượng lũy kế HTX, LH HTX: 184 HTX và 920 THT.
- Doanh thu bình quân của HTX, LH HTX, THT:
+ Đối với HTX: 5.000 triệu đồng/năm.
+ Đối với THT: trên 95 triệu đồng/năm.
- Thu nhập bình quân của thành viên, người lao động HTX, LH HTX: 45 - 48 triệu đồng/năm.
- Tỉ lệ cán bộ HTX đạt trình độ sơ, trung cấp, cao đẳng, đại học: Tổng số cán bộ quản lý HTX, LH HTX là 1.152 người, trong đó:
+ Đạt trình độ sơ cấp, trung cấp là 890 người chiếm 77,25% tổng số cán bộ HTX, LH HTX.
+ Đạt trình độ cao đẳng, đại học là 262 người chiếm 22,74% so với tổng số cán bộ HTX, LH HTX.
b) Xác định tiềm năng về ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn hoạt động
- Năm 2019, tập trung 08 nhóm sản phẩm nông nghiệp được quy hoạch sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao của tỉnh (lúa, chăn nuôi, thủy sản, hoa - cây kiểng, nấm ăn - nấm dược liệu, rau màu, cây dược liệu, cây ăn quả). Khuyến khích HTX, THT đầu tư nhà máy bảo quản, chế biến để mang lại giá trị gia tăng cao, đảm bảo chất lượng an toàn, sản phẩm có thương hiệu, truy xuất được nguồn gốc để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
- Về ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn hoạt động cụ thể:
+ Xây dựng mô hình sản xuất xoài ba màu có quy mô 500 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP gắn với chuỗi tiêu thụ sản phẩm và rau an toàn tại huyện Chợ Mới. Kết hợp thực hiện dịch vụ nông nghiệp với dịch vụ du lịch sinh thái.
+ Xây dựng vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao lúa nếp Phú Tân.
+ Xây dựng “Cánh đồng lớn” sản xuất chuỗi lúa gạo theo hướng nông nghiệp bền vững (SRP) trên địa bàn huyện Thoại Sơn; sản xuất gạo xuất khẩu từ giống lúa DS1 trên địa bàn huyện Tri Tôn và Châu Thành. Đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và HTX, THT đầu tư sản xuất và xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo Japonica bền vững.
c) Về việc thúc đẩy, phát triển cộng đồng
- Trong năm 2019, HTX, THT trên địa bàn tỉnh hoạt động ổn định, phục vụ tốt cho thành viên và cộng đồng. Các HTX được củng cố, nâng chất nhằm thu hút thêm thành viên, vốn góp, người lao động; bảo đảm ổn định đầu vào, đầu ra cho thành viên; góp phần gầy dựng vị trí, vai trò của HTX, THT trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Các HTX, THT hoạt động dịch vụ có lãi, chia lợi nhuận cho thành viên, có tích lũy để mở rộng sản xuất, kinh doanh, góp phần giải quyết lao động địa phương; và đóng góp tích cực vào các chính sách an sinh xã hội, tham gia xây dựng nông thôn mới.
5. Các giải pháp phát triển KTTT, HTX năm 2019
5.1. Tiếp tục thực hiện và hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật HTX năm 2012
- Thực hiện Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17 tháng 4 năm 2018 của Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, Ủy ban nhân dân tỉnh đã giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp các Sở, ngành và các cơ quan, đơn vị có liên quan nghiên cứu, tổng hợp, tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết quy định về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn tại địa phương theo nội dung Nghị định số 57/2018/NĐ-CP tại kỳ họp cuối năm 2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh, theo đó tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ đối với HTX, LH HTX, THT sản xuất kinh doanh thuộc 08 nhóm sản phẩm nông nghiệp được quy hoạch sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao của tỉnh (lúa, chăn nuôi, thủy sản, hoa - cây kiểng, nấm ăn - nấm dược liệu, rau màu, cây dược liệu, cây ăn quả).
- Căn cứ nhiệm vụ được giao trong các văn bản văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương, các Sở, ngành chuyên môn tham mưu Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành chính sách phát triển ngành nghề nông thôn và chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
5.2. Tuyên truyền, tập huấn Luật HTX năm 2012, Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật HTX; nâng cao năng lực nguồn nhân lực HTX
- Tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện theo Kế hoạch công tác năm 2018 về tuyên truyền, tập huấn Luật HTX năm 2012, Nghị định số 107/2017/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2017 của Chính phủ và các quy định có liên quan.
- Hỗ trợ bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, kế toán, thành viên HTX; hỗ trợ thành lập mới từ 06 - 08 HTX; thực hiện thí điểm mô hình đưa lao động trẻ tốt nghiệp đại học, cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTX NN.
5.3. Tổ chức triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển HTX theo Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
- Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình hành động số 251/CTr-UBND ngày 27 tháng 5 năm 2016 về thực hiện Đề án “Thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tại vùng đồng bằng sông Cửu Long tại An Giang giai đoạn 2016 - 2020”; Quyết định số 1400/QĐ-UBND ngày 09 tháng 5 năm 2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Đề án đổi mới, phát triển HTX, tổ hợp tác trong nông nghiệp An Giang giai đoạn 2017 - 2020; Kế hoạch số 254/KH-UBND ngày 11 tháng 5 năm 2017 của UBND tỉnh về thực hiện Đề án “Thí điểm hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tại vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2016 - 2020” trên địa bàn tỉnh An Giang.
- Triển khai thực hiện Quyết định số 461/QĐ-TTg ngày 27 tháng 4 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển 15.000 HTX, LH HTX NN hoạt động có hiệu quả đến năm 2020 và Chương trình hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cho HTX nông, lâm, ngư nghiệp tỉnh An Giang đã được Hội đồng nhân dân tỉnh chấp thuận (thực hiện Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015 - 2020).
5.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực KTTT, HTX
- Cương quyết giải thể những HTX tồn tại hình thức, HTX yếu, kém không còn khả năng hồi phục; tăng cường công tác tuyên truyền, vận động các HTX yếu, quy mô nhỏ sáp nhập với các HTX trong vùng để tăng quy mô hoạt động, năng lực sản xuất kinh doanh.
- Triển khai, sử dụng có hiệu quả Hệ thống thông tin về KTTT của tỉnh; tăng cường cung cấp thông tin kịp thời về các chính sách của Nhà nước; giới thiệu và hướng dẫn xây dựng các mô hình liên kết hiệu quả; quảng bá các sản phẩm, dịch vụ chất lượng của các HTX để phát triển và mở rộng sản xuất.
- Tăng cường hỗ trợ các HTX theo mô hình HTX kiểu mới để làm HTX mẫu triển khai trên toàn tỉnh, gắn kết với Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới năm 2019 và các năm tiếp theo.
- Tích cực thực hiện các biện pháp thông tin, truyền thông đến đối tượng HTX, LH HTX để thay đổi mạnh mẽ hơn nữa về tư duy kinh doanh, có phương án sản xuất, kinh doanh đa dạng, tiếp cận với nhu cầu của khách hàng. Chủ động nghiên cứu thị trường trong quá trình sản xuất, tập trung vào 08 nhóm sản phẩm nông nghiệp được quy hoạch sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao của tỉnh; liên kết HTX với doanh nghiệp xây dựng “Cánh đồng lớn”. Chú trọng nâng cao giá trị, chất lượng nông sản, hàng hóa đồng thời quan tâm xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý đối với các sản phẩm, ngành hàng chủ lực; quan tâm sử dụng sản phẩm, dịch vụ của nhau.
5.5. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về KTTT, HTX
- Tiếp tục tổ chức và củng cố Ban Chỉ đạo phát triển KTTT cấp huyện; các xã, phường, thị trấn phân công công chức kiêm nhiệm về kinh tế hợp tác.
- Tăng cường giám sát thi hành Luật HTX và hướng dẫn thực hiện các chính sách đối với khu vực kinh tế này. Kiên quyết giải thể các HTX ngừng hoạt động và HTX không tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012.
5.6. Tập trung nguồn lực phát triển KTTT gắn với thực hiện Chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới
- Trong năm 2019, tập trung nguồn lực phát triển HTX trên địa bàn các xã xây dựng nông thôn mới để hoàn thành tiêu chí số 13 Chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 của tỉnh An Giang, cụ thể:
+ Xã Châu Phong, thị xã Tân Châu.
+ Xã Phú Hưng, Bình Thạnh Đông, huyện Phú Tân.
+ Xã Ô Long Vỹ, huyện Châu Phú.
+ Xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên.
+ Xã Lương Phi, huyện Tri Tôn.
+ Xã An Hòa, huyện Châu Thành.
+ Xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới.
+ Xã Phú Thuận, Vọng Thê, Mỹ Phú Đông, huyện Thoại Sơn.
- Phấn đấu xây dựng thành công huyện Thoại Sơn trở thành huyện nông thôn mới của tỉnh An Giang trong năm 2019.
5.7. Huy động các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế tham gia thúc đẩy phát triển KTTT, HTX
- Xây dựng, thực hiện các Đề án, Kế hoạch phát triển HTX phải gắn, kết hợp với việc sử dụng nguồn vốn từ Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững (VnSAT) tại An Giang và các nguồn huy động hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức.
- Tiếp tục phối hợp với các tổ chức xã hội, các tổ chức đoàn thể, các trường trong tỉnh tham gia tuyên truyền, mở lớp tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức liên quan đến HTX kiểu mới, phổ biến các chính sách hỗ trợ KTTT, giới thiệu mô hình KTTT hiệu quả… đến các thành phần trong xã hội để mọi người thấy được vai trò và lợi ích khi tham gia mô hình này.
- Kêu gọi các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lương thực tiếp tục tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ với các HTX, LH HTX, nhằm góp phần tạo sự bền vững, thúc đẩy phát triển KTTT địa phương.
- Tiếp tục phối hợp với doanh nghiệp (Công ty CP Tập đoàn Lộc Trời, Công ty CP Nông sản Vinacam, Công ty CP Rau quả Thực phẩm An Giang...) vận động, hỗ trợ thành lập HTX kiểu mới; thu hút thành viên tham gia HTX đang hoạt động.
Trên đây là Kế hoạch phát triển KTTT, HTX tỉnh An Giang năm 2019. Trong quá trình triển khai thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc các cơ quan, đơn vị, địa phương kịp thời phản ánh đến Sở Kế hoạch và Đầu tư (Phòng Doanh nghiệp, Kinh tế tập thể và tư nhân, điện thoại: 02963.831232) để giải quyết theo thẩm quyền. Trường hợp vượt thẩm quyền, Sở Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định./.
|
KT. CHỦ TỊCH |
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
(Không có nội dung)
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
-
Ban hành: {{m.News_Dates_Date}} Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}} Tình trạng: {{m.TinhTrang}} Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}} Ban hành: {{m.News_Dates_Date}}Hiệu lực: {{m.News_EffectDate_Date}}Tình trạng: {{m.TinhTrang}}Cập nhật: {{m.Email_SendDate_Date}}
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây
Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của Văn bản. Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản Liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...
Nếu chưa có Tài khoản, mời Bạn Đăng ký Tài khoản tại đây