Chào anh, về vấn đề của anh, Ban biên tập Lawnet có một số ý kiến như sau:
Pháp luật Việt Nam có quy định về hứa thưởng tại Điều 570 Bộ luật dân sự 2015:
“Hứa thưởng
Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng.
Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”
Như vậy, hứa thưởng cũng được xem là một giao dịch dân sự, trong đó người đã hứa thưởng có trách nhiệm phải trả thưởng sau khi người kia đã thực hiện được công việc mà người hứa thưởng yêu cầu.
Điều 572 Bộ luật dân sự quy định về trả thưởng:
- Trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công việc đó được nhận thưởng.
- Khi một công việc được hứa thưởng do nhiều người cùng thực hiện nhưng mỗi người thực hiện độc lập với nhau thì người hoàn thành đầu tiên được nhận thưởng.
- Trường hợp nhiều người cùng hoàn thành công việc được hứa thưởng vào cùng một thời điểm thì phần thưởng được chia đều cho những người đó.
- Trường hợp nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc được hứa thưởng do người hứa thưởng yêu cầu thì mỗi người được nhận một phần của phần thưởng tương ứng với phần đóng góp của mình.
Ngoài ra, người hứa thưởng chỉ được rút lại tuyên bố hứa thưởng nếu chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố.
Như vậy, việc được nhận tiền sau khi hoàn thành công việc môi giới bán đất là quyền lợi của anh theo đúng thỏa thuận của hai bên, và bên kia có nghĩa vụ phải trả khoản thưởng cho anh. Trường hợp này anh có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bên kia phải trả tiền hoa hồng môi giới đất cho mình.
Dưới đây là một số bản án về tranh chấp hợp đồng hứa thưởng đã được xét xử trên thực tế, mời anh cùng tham khảo thêm.
Ngày 19/10/2015 vợ chồng bà Lê Thị Đ, ông Nguyễn Văn T1 có ký hợp đồng trích thưởng 2.500m2 đất cho bà L và NLQ1 với điều kiện bà L giúp cho gia đình bà Đ thắng kiện việc tranh chấp giữa bà Đ với ông Phan M.V. Trong hợp đồng có đầy đủ chữ ký của hai bên và con của bà Đ là ông Nguyễn Quốc T2. Tuy nhiên, sau khi bà L giúp bà Đ thắng kiện được quyền sử dụng đất thì bà Đ không thực hiện hợp đồng trích thưởng đất cho bà L. Bà L đã nhiều lần đề nghị bà Đ thực hiện hợp đồng nhưng bà Đ cố tình không thực hiện. Vì trong quá trình thực hiện hợp đồng NLQ1bỏ cuộc nên bà L chỉ yêu cầu bà Đ và các con của bà Đ, ông T1 giao cho tôi 1.250m2 đất theo đúng hợp đồng trích thưởng đã ký. Việc bà L đỗ đất là hoàn toàn có căn cứ và đã được ghi nhận tại biên bản hòa giải ngày 01/9/2018 của Ban nhân dân ấp B, xã H. Chính vì vậy, bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét buộc bà Lê Thị Đ trích thưởng cho bà 1.250m2.
Phía bị đơn có yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án bác yêu cầu của bà L và hủy bỏ giấy tay hợp đồng trích thưởng giữa vợ chồng bà Đ với bà Nguyễn Thị Thanh L và NLQ1 vì Chữ ký “T1” trong Hợp đồng trích thưởng ngày 19/10/2015 do bà L cung cấp cho Tòa án không phải là của ông T1 và bà L hoàn toàn không có tham gia, không có giúp được gì trong việc bà Đ, ông T1 thắng kiện tại cấp phúc thẩm.
Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang quyết định:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh L với vợ chồng bà Lê Thị Đ và ông Nguyễn Văn T1 về việc buộc bà Lê Thị Đ, ông Nguyễn Văn T1 trích thưởng cho bà Nguyễn Thị Thanh L diện tích đất 1.250m2.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Lê Thị Đ đối với bà Nguyễn Thị Thanh L.
Năm 1990 cụ T có làm đơn khiếu nại đòi lại 02 căn nhà nêu trên nhưng do tuổi già, sức khỏe yếu cụ T ủy quyền cho ông BH đi lại, lo các thủ tục, giấy tờ. Theo bản cam kết ngày 15/01/1991 cụ T có hứa thưởng cho Ông 30%/tổng trị giá tài sản nếu đòi được 02 căn phố. Ông đã bỏ công sức để đi đòi lại nhà cho cụ T, trong thời gian Nhà nước đang giải quyết khiếu nại thì cụ T thu lại tờ cam kết lập ngày 15/01/1991, sau đó cụ T cùng các cụ Lâm Sơ P, Đỗ Văn T, Huỳnh ThA D là những người đồng sáng lập ngân hàng với cụ T cùng lập tờ cam kết hứa thưởng cho Ông 40% trên tổng giá trị tài sản đòi được. UBND tỉnh Vĩnh Long xem xét, giải quyết khiếu nại của Ông đến năm 2012 thì ban hành Quyết định chấp nhận chi trả giá trị khối lượng công trình xây dựng bằng số tiền 430.398.740 đồng. Sau khi nhận được tiền, cụ T cứ cố tình né tránh, không thực hiện lời hứa đối với ông BH. Do đó, Ông bắt đầu khởi kiện yêu cầu cụ T trả cho ông số tiền hứa thưởng bằng 40% trên tổng số tiền Nhà nước chi trả.
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long quyết định: buộc cụ HT trả cho ông Đinh Văn BH số tiền thưởng 12.060.000 đồng.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về