Cha mẹ của bà Lâm Thị H là ông Lâm Dui (chết 1967) và bà Nguyễn Thị Thậm (chết 1968) đã tạo lập được một khu đất làm nhà ở từ năm 1947 với diện tích đất 1.200 m2. Sau giải phóng năm 1975, chính quyền xã cẩm Thanh thông báo kêu gọi công dân về lại vườn cũ làm nhà ở và sản xuất để ổn định cuộc sống, lúc này ông Lâm Văn Dũng (cháu bà Hay) đã sử dụng khu vườn của cha mẹ bà Hay, làm nhà ở với diện tích đất 700 m2, còn lại diện tích 520 m2 đất phía sau chính quyền xã cẩm Thanh giao cho bà Phạm Thị Điền làm nhà ở.
Năm 1981, Bà H về thấy mảnh vườn của cha mẹ đã bị ông D và bà Đ đều đã làm nhà ở, Vợ chồng Bà H trao đổi và bà Đ chấp nhận dỡ nhà và trả lại đất; diện tích 700 m2 ông D đang sử dụng thì anh em nhà Bà H đồng ý cho ông D ở và trông coi khu vườn. Theo ý kiến Bà H thì đã giao hẹn với ông D “khi Nhà nước thông báo kê khai đất thì gọi bà về để kê khai đăng ký' nhưng ông D không thực hiện và hộ ông D đã tự ý đi kê khai đăng ký. Tuy nhiên, nội dung này không có tài liệu chúng cứ chứng minh và không được ông D thừa nhận.
Đối với hộ gia đình ông Lâm Văn Dũng đã sử dụng khu đất sau ngày giải phóng, đã đăng ký đất theo Chỉ thị 299/TTg và Nghị định 64/CP. Đến ngày 18/10/1994, UBND thị xã Hội An (nay là thành phố Hội An) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số E 0255650 diện tích 1.220 m2, tờ bản đồ số 05 cho gia đình ông.
Do nhu cầu về đất ở (lúc này có 09 người), tháng 11/2015, ông Lâm Văn Dũng có đơn yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất tại thửa đất số 218 (cũ 560), tờ bản đồ số 16 (tờ 05 cũ), diện tích 520 m2 từ đất trồng cây lâu năm khác thành đất ở tại nông thôn. Ngày 25/12/2015, UBND thị xã Hội An đã có Quyết định số 1171/QĐ-UBND cho phép hộ gia đình ông D được chuyển mục đích sử dụng đất với diện tích 200 m2 đất ở lâu dài, 320 m2 đất trồng cây hàng năm khác. Ngày 14/7/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam đã cấp GCNQSDĐ cho ông tại thửa 218, điện tích 520 m2.
Ngày 25/7/2016, UBND xã cẩm Thanh tiến hành hòa giải việc tranh chấp đất giữa bà Lâm Thị H và ông Lâm Văn Dũng thì các bên đương sự đều thừa nhận: diện tích đất đang tranh chấp 520 m2 tại thửa đất 560, tờ bản đồ số 05, có nguồn gốc trước năm 1975 là do ông Lâm Dui sử dụng; sau năm 1975, Nhà nước tiến hành sắp xếp bố trí đất lại cho dân thì thửa đất này được ông Lâm Văn Dũng (cháu gọi ông Lâm Dui bằng chú ruột) sử dụng, sinh sống trên mảnh đất này và được cấp GCNQSDĐ cho đến nay.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2021/DS-ST ngày 24/6/2021 của TAND tỉnh Quảng Nam đã tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lâm Thị H.
Hủy GCNQSDĐ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam cấp cho hộ ông Lâm Văn D ngày 14/7/2016 đối với thửa đất số 218, tờ bản đồ số 16, diện tích 520 m2, tại thôn Thanh Tam Đ, xã cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Buộc hộ ông Lâm Vãn Dũng trả lại phần đất 529,4 m2 (đo thực tế) thuộc thửa đất số 218, tờ bản đồ số 16, địa chỉ: thôn Thanh Tam Đ, xã Cẩm Thanh, thành phổ Hội An, tỉnh Quảng Nam cho chị em bà Lâm Thị H (có sơ đồ bản vẻ kèm theo).
Bà Lâm Thị H phải hoàn trả giá trị các vật kiến trúc gồm: Hàng rào, cây và tiền chuyển mục đích sử dụng từ đất trồng cây hằng năm khác sang loại đất ở tại nông thôn với diện tích 200m2 cho ông Lâm Văn Dũng với tổng số tiền là 63.789.800 đông”. Bản án còn tuyên về án phỉ, quyền kháng cáo của các đương sự.
Kháng cáo: Ngày 07/7/2021, ông Lâm Văn Dũng là bị đơn trong vụ án kháng cáo cho rằng: Bản án sơ thẩm ngày 24/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam căn cứ vào Điều 21 Luật đất đai năm 1993 “Việc quyết định giao đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất đó ” để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng với thực tế sử dụng đất, không căn cứ đầy đủ các tài liệu chứng cứ và lời khai các bên dẫn đến thiệt hại cho bị đơn là người sử dụng đất ngay tình, liên tục.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 14/QĐKNPT-VKS-DS ngày 06/7/2021 đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm nêu trên theo hướng không chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của bà Lâm Thị H.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 220/2021/DS-PT ngày 26/11/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định:
Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 14/QĐ-KNPT-VKS-DS ngày 06/7/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh Quảng Nam và chấp nhận kháng cáo của ông Lâm Văn Dũng. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 29/2021/DS-ST ngày 24/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Tuyên xử:
Không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lâm Thị H về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam cấp cho hộ ông Lâm Văn Dũng số cc 832765 ngày 14/7/2016 và yêu cầu buộc hộ ông Lâm Vãn D trả lại phần đất 520 m (đo thực tế 529,4 m2) đối với thửa đất số 218, tờ bản đồ số 16, tại thôn Thanh Tam Đ, xã Cẩm Thanh, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Ngoài ra Bản án phúc thẩm còn tuyên về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và chi phí đo vẽ phần đất tranh chấp, tuyên về án phí phúc thẩm.
Nguồn gốc thửa đất tranh chấp (thửa đất số 560, tờ bản đồ số 5, diện tích 520m2) do cha mẹ của bà Lâm Thị H sử dụng trước năm 1975, sau đó bỏ hoang đến năm 1975, bà Phạm Thị Điền sử dụng làm nhà ở một thời gian và không ở nữa. Bà H cho rằng bà Đ tháo dỡ nhà ở, giao trả đất cho gia đình Bà H thì ngoài lời xác nhận của bà Đ do Bà H cung cấp, Bà H không có tài liệu, chứng cứ chứng minh việc bà Đ trả đất tranh chấp cho bà H. Hơn nữa, sau khi bà Đ không sử dụng đất thì gia đình Bà H cũng không sử dụng diện tích đất tranh chấp mà ông D mới là người quản lý sử dụng cho đến nay; tại Biên bản lấy ý kiến khu dân cư ngày 12/12/2019 thể hiện: Diện tích đất tranh chấp (thửa đất số 560, tờ bản đồ số 5 nay là thửa đất số 218, tờ bản đồ số 16 diện tích 520m2) do bà Đ sử dụng từ năm 1975 đến năm 1978 thì bà Đ không ở và bỏ hoang; sau đó ông D sử dụng, gia đình Bà H không sử dụng. Đối với lời khai của Bà H về việc Bà H nhờ ông D quản lý đất tranh chấp không được ông D thừa nhận, Bà H cũng không đưa ra được chứng cứ để chứng minh; toàn bộ tài sản trên diện tích đất tranh chấp là thuộc quyền sở hữu của gia đình ông D và do gia đình ông D tạo lập (Biên bản xem xét thẩm định ngày 27/10/2020). Do đó, lời khai của Bà H về việc bà Đ trả đất tranh chấp cho gia đình Bà H và Bà H nhờ ông D quản lý đất tranh chấp là không có căn cứ.
Theo lời khai của ông Lâm Văn D thể hiện diện tích đất 529,4m2 đang tranh chấp thuộc thửa đất số 560, tờ bản đồ số 5 (nay là thửa đất sổ 218 tờ bản đồ số 16) được chính quyền địa phương giao cho gia đình ông D quản lý, sản xuất từ sau năm 1975 cho đến nay.
Lời khai của ông D được các nhân chứng: Ngô Q, Đặng Thị Th, Trần Thị X, Trần Thị H, Trương Văn H, Đỗ Văn H, Huỳnh Thị Nh và Lâm Hữu T là các hộ liền kề thửa đất số 560, tờ bản đồ số 5 đang có tranh chấp, đều xác định: “Diện tích đất này được chính quyền xã cẩm Thanh bố trí cho gia đình ông Lâm Văn Dũng trên vườn cũ của người khác; gia đình ông D là người khai hoang, sinh sống và canh tác hoa màu.., ”, lời khai của những người làm chứng phù hợp với Biên bản lấy ý kiến khu dân cư ngày 12/12/2019, phù hợp với kết luận của UBND xã cẩm Thanh tại các Biên bản hòa giải ngày 25/7/2016 và ngày 05/6/2018: "Sau năm 1975 Nhà nước tiến hành bố trí sắp xếp đất lại cho dân thì thửa đất của ông Lâm D đã được ông Lâm D đứng tên quyền sử dụng đất’’ và “Sau 1975 tổ chức' về sắp xếp dân cư Nhà nước đã cấp cho hộ ông Lâm D sử dụng từ đó đến nay cũng phù hợp với việc gia đình ông D kê khai đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích đất tranh chấp: “Đăng ký kê khai theo Chỉ thị 299/TTg, thuộc thửa đất số 375, tờ bản đồ số 5, diện tích 547m2 loại đất màu (bà Võ Thị Ch - mẹ ông D kê khai); đăng ký, kê khai theo Nghị định 64/CP, thuộc thửa số 560, tờ bản đồ số 5 diện tích 520m2 loại đất màu (do ông Lâm H - là Lâm Văn D) kê khai; theo hồ sơ đo đạc mới' VN2000 là thửa số 218, tờ bản đồ số 16, diện tích 590m2 loại đất màu do ông D sử dụng” (Phiếu cung cấp thông tin về đất đai của UBND xã Cẩm Thanh ngày 12/4/2021)."
Như vậy, hộ ông Dùng là người được chính quyền địa phương bố trí giao đất hộ ông D sử dụng đất ổn định, liên tục và đăng ký kê khai đầy đủ theo quy định của pháp luật. Mặt khác, thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp thì thửa số 560, tờ bản đồ số 5, diện tích 520m2 (loại đất màu) là đất sản xuất nông nghiệp nên hộ ông D có đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định khoản 1 Điều 2 Luật đất đai năm 1993; Điều 1 và khoản 3 Điều 3 Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ: “Hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp” và “Đất giao cho hộ gia đình, cá nhân theo Quy định này là giao chính thức và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài"
Hộ ông Lâm Văn D được UBND thị xã Hội An (nay là UBND thành phố Hội An) cấp GCNQSDĐ số E 0255650 ngày 18/10/1994 với tổng diện tích 1.220 m2, trong đó có thửa đất số 560 (thửa đất mới là số 218), tờ bản đồ số 5 (tờ bản đồ mới là số 16), diện tích 520m2 tại xã Cẩm T, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam cấp đổi lại Giấy CNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở ngày 14/7/2016 là đúng quy định tại khoản 4 Điều 95, khoản 3 Điều 105 Luật đất đai năm 2013.
Hộ ông Lâm Văn D sử dụng đất ổn định, liên tục, công khai cho đển nay đã 35 năm, bà Lâm Thị H không sử dụng đất nhưng Tòa án cấp sơ thẩm nhận đinh cho rằng diện tích đất tranh chấp do gia đình Bà H đang quản lý, sử dụng và UBND thành phố Hội An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông D ngày 18/10/1994, không thực hiện việc thu hồi đất của Bà H là không phù hợp với thực tế và không đúng quy định của Điều 2 Luật đất đai năm 1993 của Việt Nam. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận Kháng nghị cùa Viện trưởng VKSND tỉnh Quảng Nam và kháng cáo của ông Lâm Văn D, sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về