TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 21/2024/DS-ST NGÀY 20/05/2024 VỀ TUYÊN BỐ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
Ngày 20 tháng 5 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 31/2023/TLST-DS ngày 13/03/2023 về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2024/QĐXXST-DS ngày 01/04/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: 1. Ông Bùi Trung D, sinh năm 1976;
2. Bà Trần Thị Phương L, sinh năm 1977;
HKTT tại P504, V4A, Tập thể Voi Phục, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội Địa chỉ thường trú:Số B ngõ A phố M, phường M, quận N, thành phố Hà Nội Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông D: Luật sư Nguyễn Thị T - Công ty L1 - Đoàn luật sư T3.
(ông D, bà L, bà T có mặt)
- Bị đơn: Ông Vũ Văn Q, sinh năm 1978;
Địa chỉ: P, tòa nhà B, N05, phố H, phường T, quận C, thành phố Hà Nội;
Đại diện theo ủy quyền: Công ty L2; Người được chỉ định thực hiện: Bà Nguyễn Thị Hồng D1, bà Vương Thị T1 (Giấy ủy quyền ngày 03/4/2023); ( Bà D1 có mặt, bà T1 vắng mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Đỗ Xuân T2 - Công ty L2 - thuộc Đoàn luật sư thành phố T3.
(Ông T2 có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Văn phòng thừa phát lại quận N;
Địa chỉ: Tầng C, số B N, phường M, quận N, thành phố Hà Nội Đại diện theo pháp luật: Bà Đặng Thị Minh H - Trưởng Văn phòng. (Vắng mặt)
2. Ông Bùi Quang H1, sinh năm 1976;
3. Bà Ngô Thị N, sinh năm 1975;
4. Anh Bùi Hàn H2, sinh năm 1998;
5. Chị Bùi Thị Thảo V, sinh năm 2004;
Cùng địa chỉ: thôn A, xã A, huyện H, Hà Nội.
(Ông H1, bà N, anh H2, chị V vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn - ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L trình bày:
Thông qua Vi bằng số: 273/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 07/5/2018 tại địa chỉ: A, tòa nhà G, KĐT N, thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội thì vợ chồng ông bà được biết hộ gia đình ông Bùi Quang H1 gồm có: Ông Bùi Quang H1, bà Ngô Thị N, anh Bùi Hàn H2, chị Bùi Thị Thảo V. Tất cả thành viên trong hộ gia đình ông H1 đã đồng ý chuyển nhượng cho ông Vũ Văn Q diện tích 100m2 đất dịch vụ tại địa chỉ: Thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội. Diện tích đất này có nguồn gốc do gia đình ông H1 được Nhà nước giao. Các bên xác nhận đã thanh toán và nhận đủ số tiền chuyển nhượng diện tích đất này là 2.500.000.000 đồng (Hai tỷ năm trăm triệu đồng). Vợ chồng ông bà đã thỏa thuận với ông Vũ Văn Q để nhận chuyển nhượng lại diện tích 100m2 đất dịch vụ tại địa chỉ: Thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội này. Việc thỏa thuận này được xác lập bằng Vi bằng số: 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/07/2018 giữa vợ chồng ông bà và ông Q tại địa chỉ: A, tòa nhà G, KĐT N, thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội. Ông bà đã thanh toán và ông Q đã nhận đủ số tiền 2.800.000.000 đồng (Hai tỷ tám trăm triệu đồng) của vợ chồng ông bà. Ông bà được biết, UBND xã A đã tổ chức lễ bốc thăm để nhận số lô đất và bàn giao đất trên thực địa. Ông bà đã gặp mặt, gọi điện trao đối với ông Q nhiều lần đề nghị ông Q thực hiện theo đúng thỏa thuận bàn giao cho vợ chồng ông bà diện tích đất dịch vụ 100m2 tại địa chỉ: Thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội và thực hiện các thủ tục pháp lý. Tuy nhiên, ông Q không giải quyết cho ông bà và trả lời rằng ông Q không có đất và không có tiền để trả lại cho vợ chồng ông bà. Việc ông Q không thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận tại Vi bằng số: 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/07/2018 là trái pháp luật, đã và đang trực tiếp gây thiệt hại và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông bà. Do đó, nguyên đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xem xét, giải quyết các yêu cầu sau:
1. Tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/07/2018 vô hiệu bởi các lý do sau:
- Chưa đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định pháp luật: Chưa có đất trên thực tế tại thời điểm các bên ký vi bằng, theo quy định của luật Đất đai, điều kiện để đất được giao dịch là đất phải được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Về hình thức: Theo quy định của BLDS, bắt buộc giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải công chứng, chứng thực. Mặt khác, đến thời điểm hiện tại, các bên cũng chưa hề bàn giao đất cho nhau nên đối tượng của giao dịch vẫn chưa có.
2. Giải quyết hậu quả của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất (Theo Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/07/2018) vô hiệu, cụ thể:
2.1 Buộc ông Vũ Văn Q trả lại cho ông bà số tiền 2.800.000.000 đồng (Hai tỷ tám trăm triệu đồng) mà ông bà đã thanh toán cho ông Q để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích 100m2 đất dịch vụ tại địa chỉ: Thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội theo Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/7/2018.
2.2 Buộc ông Vũ Văn Q phải bồi thường thiệt hại cho vợ chồng ông bà số tiền tạm tính từ ngày 02/04/2022 đến ngày xét xử 20/5/2024 (tương đương với lãi suất 10%/năm) do không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận theo Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/7/2018, số tiền tạm tính cụ thể là: 597.520.000 đồng (Năm trăm chín mươi bảy triệu, năm trăm hai mươi nghìn đồng).
Nguyên đơn rất thiện chí hòa giải nhưng bị đơn không thiện chí. Vụ án đã được hòa giải nhiều lần, đề nghị Tòa án không tiếp tục hòa giải mà nhanh chóng đưa vụ án ra xét xử theo quy định.
- Bị đơn ông Vũ Văn Q tại phiên tòa cũng như đại diện theo ủy quyền của bị đơn - bà Nguyễn Thị Hồng D1 trình bày:
Ngày 11/08/2023, ông đã được Tòa án cho sao chụp (i) Đơn khởi kiện (sửa đổi, bổ sung) ngày 06/6/2023 của ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L và (ii) Đơn đề nghị để ngày 02/06/2023 v/v giải trình một số nội dung liên quan đến Quyết định số 180/2023/QĐ-CCTLCC ngày 29/5/2023 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy của ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L. Quan điểm của ông về Đơn khởi kiện (sửa đổi, bổ sung) của ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L như sau: (i) Đối với Đơn khởi kiện (sửa đổi, bổ sung) ngày 06/6/2023:
Thứ nhất, Nguyên đơn đã sửa đổi Đơn khởi kiện v/v Đòi tài sản ngày 03/11/2022 sang yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/07/2018 vô hiệu bởi giao dịch chuyển nhượng là trái pháp luật vì không có đối tượng chuyển nhượng. Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện này của Nguyên đơn. Bởi:
Đối tượng chuyển nhượng của giao dịch là toàn bộ quyền và nghĩa vụ của ông Q tại Vi bằng số 273/2018/VB-TPLQNTL ngày 07/5/2018 (“Vi bằng 273”) sẽ được chuyển giao lại cho ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L. Cụ thể:
Thời gian năm 2018, qua tìm hiểu ông Vũ Văn Q được biết thông tin hộ gia đình ông Bùi Quang H1 (sinh năm 1976, CMND số 111559824 do C cấp ngày 27/09/2008) và bà Ngô Thị N cùng trú tại: Thôn A, xã A, H, Hà Nội có nhu cầu bán 100m2 (trong tổng số 150m2) đất dịch vụ tại địa chỉ Thôn A, xã A, H, Hà Nội. Diện tích đất dịch vụ này gia đình ông H1, bà N được Nhà nước giao (theo Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ) sau khi thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình ông H1, bà N. Do mới chỉ có thông báo về việc giao đất dịch vụ cho hộ gia đình ông H1, bà N mà chưa bốc thăm vị trí thửa đất và chưa được nhà nước bàn giao trên thực địa nên ông Q và ông H1, bà N thống nhất với nhau lập Vi bằng 273 về cam kết thực hiện các quyền lợi và nghĩa vụ việc chuyển nhượng khi hộ gia đình ông H1, bà N được giao đất và giao nhận tiền chuyển nhượng với số tiền là 2,5 tỷ đồng.
Theo nội dung thỏa thuận, cam kết giữa các bên được ghi nhận tại Vi bằng 273, sau khi được Nhà nước giao đất, ông Bùi Quang H1 có trách nhiệm sẽ bàn giao thửa đất cho ông Q theo đúng diện tích đã chuyển nhượng và ngay sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông H1 sẽ chuyển nhượng quyền sử dụng đất này cho ông Q hoặc người thứ ba do ông Q chỉ định theo đúng quy định của pháp luật tại tổ chức hành nghề công chứng mà không được đòi hỏi từ ông Q bất cứ điều kiện nào.
Do không còn nhu cầu sử dụng nên ông Q đã đồng ý chuyển nhượng lại quyền mua thửa đất này cho vợ chồng ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L cùng trú tại 504-TTV4A V, N, B, Hà Nội. Các bên thống nhất lập Vi bằng số 485/2018/VBTPLQNTL ngày 21/7/2018 (“Vi bằng 485”).
Tại Vi bằng 485 đã nêu rõ ngay sau khi nhận đủ toàn bộ số tiền chuyển nhượng, ông Q sẽ bàn giao các giấy tờ liên quan đến thửa đất nêu trên cùng Vi bằng số 273/2018/VB-TPLQNTL bản chính cho ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L và kể từ ngày vi bằng này được ký kết, toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của ông Q tại Vi bằng 273 sẽ được chuyển giao toàn bộ cho ông Bùi Trung D, bà Trần Thị Phương L Thực hiện theo đúng thỏa thuận tại Vi bằng 485, sau khi nhận đủ số tiền chuyển nhượng từ ông D, bà L, ông Q đã bàn giao tất cả các giấy tờ, tài liệu liên quan đến thửa đất và bản chính Vi bằng 273 cho ông D, bà L.
Tuy nhiên, cho đến nay, ông H1 vẫn chưa bàn giao cũng như chuyển nhượng thửa đất này cho ông Q. Do đó, ông Q mới chưa bàn giao thửa đất trên cho ông D, bà L.
Do đó, việc Nguyên đơn cho rằng giao dịch chuyển nhượng trên là trái pháp luật vì không có đối tượng chuyển nhượng là không có căn cứ, cơ sở pháp lý. Theo đó, trường hợp này không thể áp dụng hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015.
Thứ hai, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại của ông D và bà L là không có căn cứ. Bởi khi ông D, bà L thỏa thuận với ông Q, ông D và bà L biết không bị lừa dối hay ép buộc, rõ tình trạng pháp lý của thửa đất tại địa chỉ Khu đất dịch vụ thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội và hoàn toàn tự nguyện thực hiện giao dịch .
Thứ ba, tại Vi bằng 273 quy định “Ngay sau khi được cơ quan thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông H1, bà N thì ông H1, bà N làm mọi thủ tục pháp lý cần thiết để đủ điều kiện ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Q hoặc người thứ ba do ông Q chỉ định theo đúng quy định của pháp luật tại tổ chức hành nghề công chứng...” Tuy nhiên, cho đến nay, do yếu tố khách quan ông H1 không có mặt ở địa phương để tiến hành thực hiện các thủ tục pháp lý để bàn giao cũng như chuyển nhượng thửa đất này cho ông Q. Vì vậy ông Q mới chưa bàn giao thửa đất trên cho ông D, bà L.
Sau khi biết thông tin về ông H1 như trên, ông D, bà L và ông Q đã cùng nhau để bàn bạc tìm các phương án giải quyết. Khi gặp ông Q luôn thể hiện thiện chí với ông D, bà L sẽ phối hợp hết sức bất cứ khi nào ông D, bà L đối với thửa đất trên. Yêu cầu để liên hệ với ông H1 và yêu cầu ông H1 tiến hành các nghĩa vụ liên quan Do đó, việc ông D, bà L cho rằng ông Q không thực hiện nghĩa vụ tại Vi bằng 485 là không có cơ sở pháp lý.
Trong quá trình giải quyết vụ án, phía bị đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội xem xét, bổ sung đưa bà Dương Thúy A ( địa chỉ: A tòa nhà G, xã A, huyện H, Hà Nội) vào vụ án với tư cách là Người làm chứng nhằm chứng minh việc Nguyên đơn lập vi bằng và nhận chuyển nhượng là hoàn toàn tự nguyện.
*Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông D, bà L: hoàn toàn nhất trí với ý kiến trình bày của Nguyên đơn, đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật tuyên bố giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485/2018/VBTPLQNTL lập ngày 21/7/2018 vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, bồi thường thiệt hại cho vợ chồng ông D, bà L.
*Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Vũ Văn Q trình bày quan điểm: Ông Q luôn thể hiện thiện chí phối hợp với ông D, bà L để giải quyết vấn đề liên quan đến giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình ông H1, tại phiên tòa ông Q cũng thể hiện thiện chí muốn hòa giải nhưng vì lý do khách quan không thể thực hiện được. Việc phía bên nguyên đơn cho rằng giao dịch chuyển nhượng trên là trái pháp luật, yêu cầu tuyên vô hiệu là không có căn cứ, cơ sở pháp lý do đối tượng của giao dịch là toàn bộ quyền và nghĩa vụ của ông Q tại Vi bằng số 273/2018/VB-TPLQNTL ngày 7/5/2018 sẽ được chuyển giao lại cho ông D, bà L tại Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/7/2018. Do đó theo quan điểm của bị đơn là không đồng ý với yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, vì không có lỗi nên bị đơn không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn, do ông D, bà L ký vi bằng 485 là hoàn toàn tự nguyện, biết rõ tình trạng pháp lý của thửa đất.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Văn phòng Thừa phát lại quận N trình bày:
Ngày 16/03/2024, Văn phòng Thừa phát lại quận N nhận được thông báo số 88/2024/TB-TLVA của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Căn cứ theo tài liệu được lưu trữ tại Văn phòng, Ngày 24/3/2023 Văn phòng Thừa phát lại quận N đã cung cấp cho TAND quận Cầu Giấy theo đường bưu điện 02 hồ sơ là bản chụp Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/07/2018 và bản chụp Vi bằng số 273/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 7/5/2018 theo công văn số 05/CVVPTPL.
Tuy nhiên, vì lý do công việc của Văn phòng, Văn phòng xin được vắng mặt trong phiên họp kiểm tra và giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Quang H1, bà Ngô Thị N, anh Bùi Hàn H2, chị Bùi Thị Thảo V: vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, nên không có ý kiến trình bày. Tòa đã tiến hành xác minh tại địa chỉ thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội thì được công an cung cấp thông tin hộ gia đình ông H1 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên nhưng hiện không còn ăn ở, sinh sống tại địa chỉ trên, hộ gia đình ông H1 đi đâu, làm gì chính quyền địa phương không nắm được. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật.
* Đại diện Viện kiểm sát trình bày quan điểm giải quyết vụ án:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng: Căn cứ điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy thụ lý đơn khởi kiện của ông Bùi Trung D và Bà Trần Thị Phương L là đúng thẩm quyền; tiến hành phân công Thẩm phán, thư ký theo đúng quy định tại điều 195, 197 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Tòa án đã đảm bảo quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án theo điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; đã tiến hành tống đạt cho các đương sự và Viện kiểm sát đúng quy định tại các điều 177, 178, 179 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015; quá trình giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về phiên tòa dân sự sơ thẩm, đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử, thành phần hội đồng xét xử theo đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn tham gia đầy đủ các buổi làm việc tại Tòa án, đã thực hiện đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự tại các điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/7/2018 vô hiệu, giải quyết hậu quả của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền 2.800.000.000 đồng. Đối với yêu cầu về bồi thường thiệt hại, nguyên đơn cũng có một phần lỗi nên đề nghị chấp nhận ½ yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn. Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn được trả lại án phí đã nộp tạm ứng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Ngày 03/11/2022, ông Bùi Trung D có Đơn khởi kiện về việc Đòi tài sản với ông Vũ Văn Q. Ngày 6/6/2023, ông D, bà L có đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện giải quyết yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485 vô hiệu, giải quyết hậu quả của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng vô hiệu và bồi thường thiệt hại cho vợ chồng ông bà. Căn cứ theo khoản 3, Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định đây là tranh chấp về giao dịch dân sự, cụ thể là yêu cầu tuyên bố giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485 vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn là ông Vũ Văn Q có địa chỉ nơi cư trú tại P, tòa nhà B, đường H, phường T, quận C, thành phố Hà Nội nên căn cứ điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án xác định ông Bùi Trung D, bà Trần Thị Phương L là nguyên đơn, ông Vũ Văn Q là bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Văn phòng thừa phát lại quận N, hộ gia đình ông Bùi Quang H1 gồm ông H1, bà Ngô Thị N, anh Bùi Hàn H2, chị Bùi Thị Thảo V. Đối với yêu cầu của bị đơn đề nghị đưa chị Dương Thủy A vào với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử xét thấy Văn phòng thừa phát lại đã tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và có văn bản về việc không có ý kiến nên không cần thiết phải đưa bà Dương Thủy A vào tham gia tố tụng.
Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng, như Thông báo thụ lý và các giấy triệu tập, thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng Thừa phát lại quận N. Văn phòng thừa phát lại quận N có đơn trình bày việc xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án.
Tòa án đã thực hiện việc niêm yết văn bản tố tụng cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Quang H1, bà Ngô Thị N, anh Bùi Hàn H2, chị Bùi Thị Thảo V tại địa chỉ nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.
Phiên tòa đã mở lần thứ 2, vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.
[3] Về nội dung vụ án:
Ông D và bà L tại phiên tòa giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485 vô hiệu, giải quyết hậu quả của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485 và buộc bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn số tiền tạm tính từ ngày 2/4/2022 đến ngày xét xử ( 20/5/2024) tương đương với lãi suất 10%/năm do không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận.
Hội đồng xét xử xét thấy:
- Đối với yêu cầu tuyên bố giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485 vô hiệu: Trên thực tế, Ông D, bà L và ông Q đã thống nhất thỏa thuận các điều kiện chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng và ký xác nhận việc ông D, bà L nhận chuyển nhượng thửa đất dịch vụ có diện tích 100m2 từ ông Q khi được nhà nước giao tại địa chỉ thôn A, xã A, huyện H, Hà Nội của gia đình ông Bùi Quang H1 (Mảnh đất này được ông Bùi Quang H1 chuyển nhượng lại cho ông Vũ Văn Q tại Vi bằng số 273/2018/VB-TPLQNTL) Điều này được ghi nhận tại trang 2 của Vi bằng số 485: “Vậy ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L có đồng ý nhận chuyển nhượng lại thửa đất nêu trên khi được nhà nước giao …..? Ông Bùi Trung D thay mặt cho vợ là bà Trần Thị Phương L trả lời: “ Chúng tôi đồng ý nhận chuyển nhượng thửa đất dịch vụ có diện tích 100 m2 khi được nhà nước giao tại địa chỉ Thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội của gia đình ông Bùi Quang H1 theo lời ông Vũ Văn Q1 vừa nói.” Như vậy tại thời điểm ký kết Vi bằng số 485, mảnh đất trên vẫn chưa được giao cho ông Q. Trần quá trình giải quyết vụ án, ngày 25/7/2023 Tòa án đã đi xác minh về việc giao 100m2 đất nằm trong diện tích 150 m2 đất dịch vụ tại địa chỉ thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội thì được ông Dương Đình B- cán bộ địa chính xã A cung cấp như sau: Hộ gia đình ông Bùi Quang H1, trú tại thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội được UBND huyện H ban hành quyết định giao đất tại địa chỉ trên tuy nhiên đến nay ông Bùi Quang H1 chưa đi nhận đất tại thực địa và nhận quyết định giao đất với lý do tại thời điểm giao đất ông H1 không có mặt tại địa phương và có đơn thư kiến nghị việc tạm dừng giao đất do tranh chấp giao dịch mua bán quyền sử dụng đất dịch vụ.
Như vậy, đối tượng của giao dịch dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã không có tại thời điểm giao kết. Điều này đã vi phạm khoản 1 Điều 168 Luật đất đai năm 2013: Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận. Như vậy giao dịch dân sự theo Vi bằng số 485 đã vi phạm điều cấm của pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 123 Bộ luật dân sự Đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật đất đai quy định rõ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được công chứng chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ vào khoản 2 Điều 119 Bộ luật dân sự, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Vi bằng số 485 đã vi phạm về hình thức khi không có công chứng, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền Với những căn cứ trên, Hội đồng xét xử xét thấy giao dịch dân sự về chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485 đã vi phạm các quy định về hình thức, nội dung nên có đủ căn cứ để tuyên bố giao dịch dân sự theo vi bằng số 485 vô hiệu toàn bộ.
Về giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 “ khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Theo đó, ông Q phải trả lại ông D, bà L số tiền 2.800.000.000 đồng.
Đối với việc ông D bà L yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền tạm tính từ ngày 21/7/2018 đến ngày xét xử 20/5/2024 ( tương đương với lãi suất 10%/năm) số tiền 597.520.000 đồng: Hội đồng xét xử xét thấy khi ký xác nhận vi bằng số 485, ông D bà L cũng biết rõ trên thực tế ông Vũ Văn Q chưa được nhận giao đất từ ông Bùi Quang H1. Mặc dù biết rõ chưa có đất giao trên thực tế nhưng ông D, bà L vẫn ký vào Vi bằng số 485, như vậy ông D bà L cũng phải chịu một phần lỗi. Từ căn cứ đó, Hội đồng xét xử chấp nhận 1/2 số tiền mà ông D và bà L yêu cầu về phần bồi thường thiệt hại, buộc ông Q trả cho ông D bà L số tiền bồi thường thiệt hại là 298.760.000 đồng ( hai trăm chín mươi tám triệu, bảy trăm sáu mươi nghìn đồng).
Tổng số tiền mà ông Vũ Văn Q phải trả ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L là 3.098.760.000 đồng ( ba tỷ, không trăm chín mươi tám triệu, bảy trăm sáu mươi nghìn đồng) Nếu giữa ông Vũ Văn Q và hộ gia đình ông Bùi Quang H1 có phát sinh mâu thuẫn thì sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nguyên đơn được trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Đối với việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu , bồi thường thiệt hại, bị đơn là ông Vũ Văn Q phải chịu án phí không có giá ngạch 300.000 đồng và 93.975.000 đồng án phí dân sự có giá ngạch đối với số tiền 3.098.760.000 đồng phải trả cho ông D, bà L theo quy định tại điểm a, b khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ 227,266,267,273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ vào 116,117,119,123,131 Bộ luật dân sự;
Khoản 3 Điều 167; Khoản 1 Điều 168 Luật đất đai 2013 Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L. Tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 485/2018/VB-TPLQNTL lập ngày 21/7/2018 tại Văn phòng thừa phát lại quận N giữa ông Bùi Trung D, bà Trần Thị Phương L và ông Vũ Văn Q là vô hiệu [1] Buộc ông Vũ Văn Q phải trả cho ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L số tiền 2.800.000.000 đồng ( hai tỷ, tám trăm triệu đồng ) và số tiền bồi thường thiệt hại tính đến ngày xét xử 20/5/2024 là 298.760.000 đồng ( hai trăm chín mươi tám triệu, bảy trăm sáu mươi nghìn đồng), tổng cộng buộc ông Vũ Văn Q phải trả cho ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L số tiền là 3.098.760.000 đồng ( ba tỷ, không trăm chín mươi tám triệu, bảy trăm sáu mươi nghìn đồng) [3] Về án phí: Ông Vũ Văn Q phải chịu 94.275.000 ( chín mươi tư triệu, hai trăm bảy mươi lăm nghìn ) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Bùi Trung D và bà Trần Thị Phương L được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 55.960.000 đồng ( năm mươi lăm triệu, chín trăm sáu mươi nghìn đồng) theo biên lai số AA/2020/0019255 ngày 08/3/2023 nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự.
[4] Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt đại diện các bên đương sự; tuyên án vắng mặt đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Các bên đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo những vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ( mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu số 21/2024/DS-ST
| Số hiệu: | 21/2024/DS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 20/05/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về