TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 387/2023/DS-PT NGÀY 23/06/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 23 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 133/2023/DS-PT ngày 16 tháng 3 năm 2023, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1179/QĐPT, ngày 24 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Bùi Văn H, sinh năm 1951; vắng mặt.
Bà Lê Thị Minh T, sinh năm 1951; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà T: Ông Bùi Văn H, sinh năm 1951 (Giấy ủy quyền ngày 23 tháng 6 năm 2020); vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Số 13 đường Cao T, phường 7, thành phố V, tỉnh B; chỗ ở hiện nay: Số 67 đường Phan Bội C, thị trấn Liên N, huyện Đức T, tỉnh Đ.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông H, bà T: Ông Trương Văn H, sinh năm 1964; cư trú tại: 208 thôn Tân Đà, xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Đ; vắng mặt
- Bị đơn: Ông Chu Trọng Hu, sinh năm 1958; có mặt.
Bà Trần Thị C, sinh năm 1959; vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Số 1672A đường 30-4, phường 12, thành phố T, tỉnh B.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bà C: Ông Nguyễn Văn Ho, sinh năm 1955; cư trú tại: 524/34/30 đường 30-4, phường Rạch Dừa, thành phố T, tỉnh B (Giấy ủy quyền ngày 18 tháng 5 năm 2016); có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân thành phố T.
Người đại hợp pháp theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân thành phố T: Bà Nguyễn Thị Tú A, chuyên viên phòng Tài Nguyên và Môi Trường thành phố T, tỉnh B; địa chỉ: 89 Lý Thường Kiệt, phường 1, thành phố T, tỉnh B (Giấy ủy quyền ngày 23 tháng 11 năm 2016); có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Ủy ban nhân dân phường 12, thành phố T; địa chỉ: Số 7A đường Nguyễn Gia Thiều, phường 12, thành phố T, tỉnh B.
Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân phường 12: Ông Lương Đức Đ - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường 12 là người đại diện theo pháp luật; có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Viettel B - Chi nhánh tập đoàn viễn thông quân đội; địa chỉ: Số 30K2 đường Trương Văn B, phường 7, thành phố T, tỉnh B.
Người đại diện hợp pháp của Viettel B - Chi nhánh tập đoàn viễn thông quân đội: Ông Hoàng Trí C - Giám đốc Viettel B - Chi nhánh tập đoàn viễn thông quân đội là người đại diện theo pháp luật; có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Ông Huỳnh Tuấn D, sinh năm 1971; cư trú tại: số 976 đường 30-4, Phường 11, thành phố T, tỉnh B; có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Ông Chu Trọng Hu, bà Trần Thị C là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Bùi Văn H và bà Lê Thị Minh T trình bày và xác định yêu cầu khởi kiện:
Theo đơn khởi kiện ngày 21/10/2010 (BL12-13) và đơn khởi kiện bổ sung ngày 18-10-2016 (BL11) thì ông Bùi Văn H và bà Lê Thị Minh T khởi kiện ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C về việc tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông H, bà T cho rằng: Ngày 30/10/2003 ông H, bà T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 777959 đối với diện tích đất 3.028m2 thuộc thửa 209 và 105, tờ bản đồ số 22, tọa lạc tại khu Nam Bình, phường 12, thành phố T, tỉnh B. Khoảng tháng 10-2003, ông Hu mời ông H đến ký giáp ranh đất để ông Hu làm thủ tục xây nhà thì ông H không đồng ý vì phát hiện phần đất ông Hu chỉ chính là đất của ông H. Tháng 11/2003, ông Hu tự ý xây móng nhà trên phần đất của ông H. Khi ông H phản đối thì ông Dũng là cán bộ địa chính phường 12 dàn xếp: Ông Hu sẽ đổi phần đất ông H đã xây móng để lấy phần đất dịch lên phía Bắc giáp nhà ông Hu hiện tại và ông H đồng ý. Tuy nhiên các bên chỉ nói miệng, không làm giấy tờ gì. Khi ông Hu làm xong nhà thì không thực hiện việc đổi đất như đã cam kết. Ông H khởi kiện yêu cầu ông Hu tháo dỡ công trình trên đất và trả lại diện tích đất khoảng 103,2 m2 đất cho ông và yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 750318 do Ủy ban nhân dân (nay viết tắt là UBND) thành phố T cấp cho ông Hu, bà C.
Tại phiên tòa, ông H là nguyên đơn và cũng là người đại diện theo ủy quyền của bà T xác định không yêu cầu định giá lại và vẫn lấy kết quả định giá tài sản tranh chấp theo biên bản định giá ngày 12/01/2017 (BL 482). Đồng thời, ông H chỉ yêu cầu Tòa án xét xử phần quyền lợi của ông H, bà T như kết quả bản án sơ thẩm số 14/2018/DS- ST ngày 15/06/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh B. Như vậy, tại phiên tòa ông H thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu bị đơn ông Hu, bà C trả lại diện tích đất 16,7m2 theo sơ đồ đo vẽ ngày 01/11/2017 của Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T và giá trị quyền sử dụng đất 65,1m2 thành tiền là: 224.920.500 đồng (Hai trăm hai mươi tư triệu, chín trăm hai mươi ngàn năm trăm đồng).
Bị đơn ông Chu Trọng Hu và người đại diện hợp pháp của bà Trần Thị C là ông Nguyễn Văn Ho thống nhất trình bày:
Tại các bản khai, biên bản lấy lời khai (BL345;347; 348; 349;350; 351;352;
353;354) ông Hu, bà C khai: Năm 1997, ông Hu, bà C nhận chuyển nhượng 156m2 (ngang 6m dài 26m) của ông Nguyễn Quốc Sơn và bà Nguyễn Thị Luân. Thời điểm đó, có đăng ký sổ mục kê thửa 208, tờ bản đồ số 22, diện tích 180m2. Khi chuyển nhượng hai bên chỉ làm giấy tay sang nhượng. Ngày 08-01-2004, ông Hu, bà C được UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 750318, thuộc thửa 208, tờ bản đồ số 22, diện tích 77m2. Năm 2003, ông Hu, bà C làm nhà cấp 3 trên đất này. Về việc đổi đất: ông H có thỏa thuận đổi 700m2 phía sau nhà ông lấy diện tích nhà ông đã xây dựng nhưng ông không đồng ý. Nay ông H, bà T khởi kiện yêu cầu ông Hu và bà C trả lại đất và yêu cầu hủy sổ đỏ của ông, ông không đồng ý. Ngày 23/01/2017, ông Hu có đơn phản tố (BL: 18 - 20) yêu cầu ông H, bà T bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần là 500.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, ông Hu và người đại diện hợp pháp của bà C là ông Ho xác định không yêu cầu định giá lại và vẫn lấy kết quả định giá tài sản tranh chấp theo biên bản định giá ngày 12/01/2017 (BL: 482).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. Ủy ban nhân dân thành phố T trình bày:
Trên cơ sở xác nhận của UBND phường, nguồn gốc đất của ông H là do bà Đào Thị Lệ khai phá năm 1984. Năm 1992, bà Lệ chuyển nhượng cho ông H diện tích là 3.028m2, thời điểm này chưa có bản đồ. Năm 1993 ông H đứng tên kê khai đăng ký tại tờ bản đồ số 22 thửa 105, diện tích 3.126m2 đất ruộng muối và thửa 209 diện tích 168m2 đất thổ cư. Ngày 30/10/2003, ông H được cấp GCNQSD đất số W 777959 ngày 30/10/2003 cho hộ ông H đối với diện tích 3.028m2 Ho toàn đúng quy định pháp luật. Do đó, UBND thành phố T không đồng ý với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Chu Trọng Hu.
2. Ủy ban nhân dân phường 12, thành phố T trình bày:
Tại văn bản số 247/UBND - ĐC ngày 29-5-2014 (BL246), UBND phường 12 có ý kiến: Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2003 cho ông Bùi Văn H căn cứ theo quy định tại thời điểm cấp Giấy thì là đất trống, không có ai tranh chấp, thuộc tờ bản đồ số 22 thửa 105, 209 diện tích 3.028m2, mục đích sử dụng là đất nông ngH, trên cơ sở bản đồ giải thửa lập năm 1993. Ông Chu Trọng Hu được UBND thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 08/01/2004 thuộc tờ bản đồ 22 thửa 208, diện tích 77m2 đất ở không nằm vị trí nhà hiện nay nhà ông Hu đã xây dựng. Hiện nay, căn nhà của ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C đang ở xây dựng trên thửa đất số 209, tờ bản đồ số 22 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho ông Bùi Văn H năm 2003. Tại thời điểm xây dựng nhà năm 2003 thì ông Hu bà C không có giấy phép xây dựng và chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3. Viettel B - Chi nhánh viễn thông quân đội trình bày:
Viettel B thuê mặt bằng để đặt trạm viễn thông tại nhà số 1672 đường 30-4, phường 12, thành phố T. Việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông H và ông Hu, Viettel B - Chi nhánh viễn thông quân đội không có ý kiến gì.
4. Ông Huỳnh Tuấn Dũng trình bày:
Ông Dũng nguyên là cán bộ địa chính phường 11 sau chuyển thành phường 12, thành phố T. Năm 2003, ông Hu làm thủ tục xin cấp GCNQSD đất. Hồ sơ cán bộ địa chính cũ xác nhận có cấp cho ông Nguyễn Quốc Sơn 156m2, tờ bản đồ số 22, thửa 208. Theo ông Dũng, nằm giữa thửa 208 và 209 là thửa 107. Căn cứ vào bản đồ địa chính năm 1993 và đối chiếu vị trí đất thực tế thì có thể biết rõ vị trí thửa 208, 209 nằm ở đâu, nhưng đất hiện nay ông Hu đã xây nhà đang ở là đất cấp trong sổ đỏ của ông H. Còn đất của ông Hu cấp tại sổ đỏ trên thực tế ở đâu thì ông không rõ vì khi đo đất để cấp sổ cho ông Hu, Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi trường tiến hành đo đạc theo sự chỉ ranh của ông Hu, không mời ông xác định vị trí đất của ông Hu.
Tại Bản án dân sự số: 13/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B quyết định:
Căn cứ vào Điều 26; Điều 34; Điều 37; Điều 39; Điều 157, 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 12; khoản 1,5 Điều 166 Luật đất đai.
Căn cứ Điều 27 Pháp lệnh về án phí, lệ phí năm 2009 ngày 27/2/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 và Điều 2 Luật người cao tuổi.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn H và bà Lê Thị Minh T. Bác toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Chu Trọng Hu.
2. Ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C được quyền sử dụng tổng diện tích đất là 142,1m2 theo bản đồ đo vẽ ngày 01/12/2017 của Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T kèm theo bản án này (gồm 77m2 đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 750318 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho hộ gia đình ông Chu Trọng Hu ngày 08/01/2004 và 65,1m2 thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 777959 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho hộ gia đình ông Bùi Văn H).
Ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C có quyền liên hệ với các cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này.
3. Ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C có trách nhiệm trả lại phần diện tích 16,7m2 đất theo sơ đồ bản vẽ ngày 01/12/2017 của Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T kèm theo bản án này (lô C1). Đối với phần cây trồng, vật kiến trúc trên phần đất này, ông Hu, bà C phải có trách nhiệm di dời trước khi trả đất cho ông H, bà T.
4. Ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C có trách nhiệm trả ông Bùi Văn H và bà Lê Thị Minh T giá trị quyền sử dụng 65,1m2 đất là 224.920.500 đồng (Hai trăm hai mươi tư triệu, chín trăm hai mươi ngàn năm trăm đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
5. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 750318 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C ngày 08/01/2004.
6. Các cơ quan quản lý đất đai có trách nhiệm điều chỉnh lại diện tích thực tế giảm của hộ gia đình ông Bùi Văn H tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 777959 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho hộ gia đình ông Bùi Văn H ngày 30-10-2003.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/10/2022 ông Hu và bà C kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét tài liệu, chứng cứ mới nên yêu cầu hủy bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa, ông Hu yêu cầu sửa án sơ thẩm và khẳng định nhận chuyển nhượng của ông Sơn 180m2; khi UBND thành phố T cấp giấy CNQSDĐ là 77m2 ông Hu đã khiếu nại, UBND thành phố T lập biên bản, không ban hành quyết định giải quyết khiếu nại; tại phiên tòa ông Hu cung cấp bản vẽ lập ngày 19/8/2022 và trình bày Tòa án cấp sơ thẩm không sử dụng bản vẽ này để giải quyết; vì bản vẽ này thửa 506, 376, 500, 507, 383 tổng diện tích 180,3m2 thuộc quyền sử dụng của ông Hu; ông Hu xác định giữa đất của ông Hu và đất của ông H là đất của ông Chi; ông Hu cho rằng nhận chuyển nhượng của ông Sơn 180m2, nên đất của ông Hu sử dụng là 180m2. Ông Hu yêu cầu sửa án sơ thẩm chấp nhận đơn phản tố của ông Hu.
Người đại diện hợp pháp cho bà C là ông Ho trình bày: Bản án sơ thẩm xét xử lần này cũng giống như bản án sơ thẩm cũ; người đạo diễn xảy ra vụ án này là ông Dũng cán bộ đất đai của phường, ông Dũng thay đổi các thửa đất dẫn đến tranh chấp; sơ đồ bản vẽ cung cấp rất nhiều nhưng tòa sơ thẩm không sử dụng, chỉ sử dụng bản vẽ của Tòa cấp sơ thẩm để xét xử. Đề nghị sửa bản án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của ông H; chấp nhận đơn phản tố của ông Hu, hủy giấy CNQSDĐ cấp cho ông H, vì bản vẽ không đúng vị trí.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh: Về thủ tục tố tụng những người tiến hành tố tụng, các đương sự tuân thủ đúng theo quy định. Về nội dung kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án và đã xét xử đúng pháp luật; tại phiên tòa ông Hu yêu cầu sử dụng bản vẽ lập ngày 19/8/2022, để giải quyết vụ án, vì bản vẽ này theo sự chỉ ranh của ông Hu, không phù hợp với diện tích đất của ông Hu nên Tòa cấp sơ thẩm không sử dụng là phù hợp. Đề nghị bác đơn kháng cáo của ông Hu, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định:
- Đơn kháng cáo của bị đơn ông Hu, bà C đúng theo quy định của pháp luật, hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1]. Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là quan hệ dân sự, về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là đúng quan hệ tranh chấp; vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh B, theo quy định tại khoản 9 và khoản 14 Điều 26, Điều 37, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2]. Theo tài liệu UBND thành phố T cung cấp:
[2.1]. Năm 1984, bà Đào Thị Lệ khai phá khoảng 3.028m2 đất; đến năm 1992, vợ chồng bà Lệ chuyển nhượng cho vợ chồng ông H toàn bộ diện tích đất trên và được UBND phường 11 (cũ) xác nhận ngày 09/01/1992. Ngày 19/11/2001 vợ chồng ông H làm đơn xin hợp thức hóa quyền sử dụng đất và được UBND phường 11 (cũ) xác nhận; đến ngày 30/10/2003, UBND thành phố T cấp Giấy CNQSDĐ cho ông Bùi Văn H, bà Lê Thị Minh T số W 777959 diện tích 3.028m2 đất nông nghiệp thuộc thửa 105 và 209, tờ bản đồ số 22 (cũ) kèm sơ đồ vị trí được Phòng địa chính xác nhận ngày 18/9/2003 (BL: 329, 330).
[2.2]. Năm 1988, UBND phường 11 (cũ) giao cho ông Nguyễn Quốc S 01 lô đất để làm nhà ở; đến năm 1997, ông Sơn chuyển nhượng lại cho ông Hu, bà C bằng giấy tay. Ngày 30/9/2003, ông Hu làm đơn xin hợp thức hóa quyền sử dụng đất và được UBND phường 11 (cũ) xác nhận và đến ngày 08/01/2004, UBND thành phố T cấp Giấy CNQSDĐ số W 750318 diện tích 77m2 đất ở, thuộc thửa 208, tờ bản đồ số 22 (cũ) kèm sơ đồ vị trí được Phòng địa chính xác nhận ngày 24/12/2003 (BL: 329, 331).
[3]. Theo Sơ đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố T lập ngày 01/12/2017 thì phần đất ông Hu, bà C sử dụng đo đạc thực tế là 180,9m2, gồm các phần: Phần 1 diện tích 22,1m2 thuộc đường giao thông. Phần 2 sân nhà có diện tích 46,2m2 thuộc thửa 506 mới. Phần 3 nhà ở cấp 3 diện tích 79,3m2 thuộc thửa 506 mới. Phần 4 nhà phụ diện tích 16,6m2 thuộc thửa 506 mới. Phần 5 đất trống sau nhà có diện tích 16,7m2 thuộc thửa 598 mới (BL: 492). Diện tích đất tranh chấp thực tế gồm hai phần: Phần diện tích 65,1m2 đất ông Hu, bà C đã làm sân phía trước, xây nhà cấp 3 và công trình phụ. Phần diện tích 16,7m2 đất trống phía sau nhà ông Hu, bà C giáp đất của ông H.
[4]. Căn cứ tài liệu do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập: Văn bản số 488/TB- VPĐKQSDĐ ngày 21/01/2015 thì vị trí thửa đất 208 cũ, tờ bản đồ số 22 cũ nay thuộc thửa mới là 598 + 506, tờ bản đồ mới 108 tọa lạc tại phường 12, thành phố T, tỉnh B. Tại Biên bản xác minh ngày 10/4/2018 thì đại diện Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T cung cấp: Thửa đất cũ 208, tờ bản đồ cũ số 22 có tổng diện tích khoảng 187m2. Trong đó bao gồm: khoảng 122,2m2 nằm trong thửa mới số 378, tờ bản đồ mới số 108; khoảng 22,4m2 nằm trong thửa mới số 377, tờ bản đồ mới số 108 thuộc lộ giới đường Võ Nguyên Giáp và phần còn lại khoảng 42,6m2 nằm trọn trong đường 30-4 (nay là đường Võ Nguyên Giáp) kèm theo sơ đồ lồng ghép (BL:
337a, 337b). Đối chiếu với sơ đồ lồng ghép thửa cũ, thửa mới (BL: 1187) thì thửa 208 (đất cấp theo sổ của hộ gia đình ông Hu) là một phần thửa 598 mới và thửa 506 mới; thửa 209 cũ và thửa 105 cũ (đất cấp theo sổ của hộ gia đình ông H) là một phần thửa 506 mới; 507 mới; một phần thửa 598 mới. Căn cứ sơ đồ lồng ghép với các bản vẽ hiện trạng của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Tàu lập ngày 01/12/2017 (BL: 492) và bản vẽ lập ngày 19/8/2022 thì diện tích nhà ông Hu xây và đang ở hiện nay nằm một phần trên diện tích đất đã được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho hộ ông Bùi Văn H.
[5]. Tại Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 18/5/2021 của TAND tỉnh B thì thửa đất hiện trạng ông Hu đang ở giáp ranh phía sau với đất của ông H; không có đất của ông Chi nằm giữa đất ông H và ông Hu tranh chấp (BL: 964, 965). Mặt khác, diện tích đất của ông Hu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 77m2; phù hợp với diện tích đất ông Nguyễn Quốc Sơn được UBND Phường 11 (cũ), thành phố T giao 77m2 đất. Do đó, tại phiên tòa phúc thẩm ông Hu trình bày nhận chuyển nhượng của ông Sơn 180m2 đất nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của ông Hu nên không được chấp nhận.
[6]. Từ những căn cứ trên, ông Hu sử dụng 77m2 nhưng thực tế sử dụng tổng cộng 158,8m2 (77m2 + 65,1m2 + 16,7m2). Do diện tích đất 65,1m2 ông Hu, bà C đã xây dựng công trình kiên cố, Toà án cấp sơ thẩm buộc ông Hu, bà C có nghĩa vụ trả lại cho ông H, bà T giá trị quyền sử dụng đất là 65,1m2 x 3.455.000 đồng/1 m2 = 224.920.500 đồng;
phần đất trống phía sau có diện tích 16,7m2 ông Hu, bà C có trách nhiệm trả lại ông H, bà T là có căn cứ.
[7]. Ông Hu, bà C kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới; lời trình bày của ông Hu và ông Ho không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định Hội đồng xét xử nên được chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[8]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông Hu, bà C thuộc trường hợp người cao tuổi, nên được miễn án phí.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Chu Trọng Hu, bà Trần Thị C; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2022/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B như sau:
Căn cứ tại khoản 9 Điều 26, Điều 37, Điều 39, Điều 157; Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 1 và khoản 5 Điều 166 Luật đất đai năm 2013; Căn cứ Điều 27 Pháp lệnh về án phí, lệ phí năm 2009; Căn cứ Điều 2 Luật người cao tuổi; Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn H và bà Lê Thị Minh T. Bác toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Chu Trọng Hu.
2. Ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C được quyền sử dụng tổng diện tích đất là 142,1m2 theo bản đồ đo vẽ ngày 01/12/2017 của Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T kèm theo bản án này (gồm 77m2 đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 750318 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho hộ gia đình ông Chu Trọng Hu ngày 08-01-2004 và 65,1m2 thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 777959 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho hộ gia đình ông Bùi Văn H).
Ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C có quyền liên hệ với các cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này.
3. Ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C có trách nhiệm trả lại phần diện tích 16,7m2 đất theo sơ đồ bản vẽ ngày 01/12/2017 của Văn phòng đăng ký đất đai thành phố T kèm theo bản án này (lô C1). Đối với phần cây trồng, vật kiến trúc trên phần đất này, ông Hu, bà C phải có trách nhiệm di dời trước khi trả đất cho ông H, bà T (Kèm theo bản án là bản vẽ ngày 01/12/2017).
4. Ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C có trách nhiệm trả ông Bùi Văn H và bà Lê Thị Minh T giá trị quyền sử dụng 65,1m2 đất là 224.920.500 đồng (Hai trăm hai mươi tư triệu, chín trăm hai mươi ngàn, năm trăm đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
5. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 750318 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho ông Chu Trọng Hu và bà Trần Thị C ngày 08-01-2004.
6. Các cơ quan quản lý đất đai có trách nhiệm điều chỉnh lại diện tích thực tế giảm của hộ gia đình ông Bùi Văn H tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 777959 do Ủy ban nhân dân thành phố T cấp cho hộ gia đình ông Bùi Văn H ngày 30-10-2003.
7. Về chi phí đo vẽ, thẩm định, định giá:
Chi phí đo vẽ, thẩm định, định giá xét xử sơ thẩm lần 1 tổng cộng là: 9.532.801 đồng (Chín triệu năm trăm ba mươi hai ngàn tám trăm lẻ một đồng). Ông Bùi Văn H tự nguyện chịu và đã nộp đủ.
Chi phí thẩm định tại chỗ, xác minh xét xử sơ thẩm lần 2 là 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm ngàn đồng). Ông Bùi Văn H tự nguyện chịu và đã nộp đủ.
Chi phí đo vẽ lại lần 02 theo yêu cầu của ông Chu Trọng Hu xét xử sơ thẩm lần 2 là: 7.100.000 đồng (Bảy triệu một trăm ngàn đồng). Ông Chu Trọng Hu phải chịu và đã nộp xong.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Chu Trọng Hu, bà Trần Thị C được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm do thuộc đối tượng là người cao tuổi. Ho trả lại cho ông Chu Trọng Hu, bà Trần Thị C số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001260 ngày 26/10/2016 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.
Ho trả cho ông Bùi Văn H toàn bộ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.200.000 đồng (Mười triệu hai trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 010404 ngày 07/10/2010 và số 0001060 ngày 18/10/2016 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố T.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
II. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Chu Trọng Hu, bà Trần Thị C được miễn.
III. Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 387/2023/DS-PT
Số hiệu: | 387/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về