Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thừa kế số 427/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 427/2022/DS-PT NGÀY 27/10/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ THỪA KẾ

Ngày 27 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 102/2022/TLPT-DS ngày 23 tháng 3 năm 2022, về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thừa kế”; Do bản án dân sự sơ thẩm số 223/2021/DS-ST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ bị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 365/2022/QĐXXPT-DS ngày 22 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 441/2022/QĐPT-DS ngày 14 tháng 9 năm 2022; Thông báo mở lại phiên tòa số 596/2022/TB-TA ngày 19/10/2022; Giữa:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm Văn T2, sinh năm 1960; Trú tại địa chỉ: Số nhà 35, phố Đặng Văn Ngữ, phường T, quận Đ, thành phố H.

2. Bị đơn có yêu cầu phản tố: Bà Phạm Thị Đ2, sinh năm 1950; Trú tại:

Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

- Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ2: Anh Phạm X H, sinh năm 1983 (Là con bà Đ2); Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H (Theo Giấy ủy quyền ngày 23/11/2019).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Đỗ Văn K và Luật sư Ngô Trường L- Công ty luật TNHH T- Đ2 Luật sư TP. H; Địa chỉ liên hệ: Số 23, Ngõ 84, phố Trần Q Diệu, phường Q, quận Đ, thành phố H.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Cụ Phạm Thị Ng, sinh năm 1922; Trú tại: Xóm Đông, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

- Người đại diện hợp pháp của cụ N: Ông Trần Văn Th, sinh năm 1956 (Là con cụ N, cụ C); Trú tại: Xóm Đông, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H (Theo Biên bản họp gia đình ngày 22/02/2020).

3.2. Cụ Phạm Thị Th, sinh năm 1933; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.3. Ông Phạm Ngọc Th, sinh năm 1943; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.4. Bà Phạm Thị M, sinh năm 1950; Trú tại địa chỉ: Xóm Đông, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.5. Bà Phạm Thị T, sinh năm 1957; Trú tại địa chỉ: Xóm Đông, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.6. Cụ Lại Thị Ph, sinh năm 1934; Trú tại địa chỉ: Thôn Đầm, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.7. Ông Lại Văn Th, sinh năm 1942; Trú tại địa chỉ: Xóm Chữ, thôn Ba Chữ, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.8. Bà Lại Thị Ph, sinh năm 1948; Trú tại địa chỉ: Xóm Chữ, thôn Ba Chữ, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.9. Ông Lại Văn Đ, sinh năm 1955; Trú tại địa chỉ: Xóm Chữ, thôn Ba Chữ, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.10. Bà Lại Thị L, sinh năm 1962; Trú tại địa chỉ: Thôn Đầm, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.11. Bà Lại Thị L, sinh năm 1965; Trú tại địa chỉ: Thôn Đầm, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.12. Ông Lại Đ6 Q, sinh năm 1967; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.13. Bà Lại Thị S, sinh năm 1971; Trú tại địa chỉ: Thôn Ba Chữ, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.14. Ông Lại Đ6 V2, sinh năm 1978; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.15. Bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1946; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.16. Bà Phạm Thị K, sinh năm 1956; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.17. Bà Phạm Thị N, sinh năm 1959; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.18. Bà Phạm Thị V (Tức Ĺ), sinh năm 1962; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.19. Ông Phạm Văn Th, sinh năm 1959; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.20. Ông Lại Quách N, sinh năm 1942; Trú tại đại chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.21. Ông Lại Đ6 L, sinh năm 1947; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.22. Ông Lại Đ6 T, sinh năm 1950; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.23. Ông Lại Đ6 L5, sinh năm 1965; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.24. Bà Lại Thị M, sinh năm 1955; Trú tại địa chỉ: Thôn Đầm, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.25. Bà Lại Thị X, sinh năm 1958; Trú tại địa chỉ: Phố Vân Trì, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.26. Bà Lại Thị H, sinh năm 1961; Trú tại địa chỉ: Xóm Thố, thôn Thố Bảo, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.27. Ông Phạm Q, sinh năm 1974; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.28. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1979; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

3.29. Anh Phạm X H, sinh năm 1983; Trú tại địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H

3.30. Ủy ban nhân dân huyện Đ; Địa chỉ trụ sở: Tổ 2, đường Cao Lỗ, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố H.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn X L - Chủ tịch UBND.

- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Anh D - Phó Chủ tịch UBND (Theo Giấy ủy quyền số 04/GUQ-UBND ngày 25/01/2021).

Người kháng cáo: Bà Phạm Thị Đ2 (Có mặt: Ông T2, anh H, bà M, bà T, anh Tr, Luật sư K và Luật sư L; Các đương sự khác vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện ghi ngày 09 tháng 11 năm 2017; Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 03 tháng 12 năm 2018; Đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung ngày 23 tháng 05 năm 2019 và quá trình giải quyết tại Tòa án, nguyên đơn trong vụ án là ông Phạm Văn T2 trình bày:

I/ Về quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống:

Ông nội ông là cụ Phạm Văn L6 (sinh năm 1883, chết ngày 14 tháng 04 năm 1964). Cụ có 02 người vợ là cụ Vũ Thị L7 (sinh năm 1890, chết ngày 22 tháng 08 năm 1960) và cụ Nguyễn Thị Kh (chết ngày 03 tháng 08 năm 1962).

* Cụ L6 và cụ L7 có 02 người con chung là cụ Phạm Văn L và cụ Phạm Thị V5.

1. Cụ Phạm Văn L, sinh năm 1911; đã chết năm 1982. Cụ L có 03 người vợ là: Cụ G, cụ H2 và cụ T3.

+ Vợ cả của cụ L là cụ Trần Thị G, đã chết năm 1979 (tức ngày 23 tháng 05 âm lịch). Hai cụ có 03 người con đẻ là: Bà T, bà Nh và bà Đ1 và nhận nuôi ông Th1 (là con đẻ của vợ chồng cụ Ng cụ T2, gọi cụ L là bác ruột) từ nhỏ. Ông Th1 mang họ Phạm của cụ L.

- Bà Phạm Thị T chết sau cụ L, cụ G và không có chồng con.

- Bà Phạm Thị Nh đã chết năm 2000; có chồng là ông Lại Văn Gia đã chết năm 1979. Ông bà có 01 người con là anh Đắp đang sinh sống ở xóm Đông, thôn Đông Tây, xã V.

- Bà Phạm Thị Đ1, đã chết năm 2019; có chồng là ông Lại Đ6 C2 (đã chết năm 2015). Ông bà có 06 người con là: Chị Lu (đã chết năm 2019, không có chồng con); chị L và chị L đang sinh sống ở xóm Đầm, xã V; Anh Q, chị S và anh V2 đang sinh sống ở xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V.

- Ông Phạm Văn Th1 (con nuôi), chết Liệt sỹ chống Mỹ năm 1969; Có vợ là bà Trần Thị S3. Ông bà có 02 người con là anh Th và anh K3 (anh K3 đã chết 2005). Anh Th đang sinh sống cùng bà S3 tại xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V.

+ Vợ hai của cụ L là cụ Trần Thị H2, đã chết khoảng năm 1983. Hai cụ có 01 người con chung là bà Đ, đang sinh sống ở xóm Đông, thôn Đông Tây, xã V.

+ Vợ ba của cụ L là cụ Lại Thị T3, đã chết năm 2004. Hai cụ có 04 người con là: Bà Đ2, bà K, bà N và bà L4 (tức V); Hiện các bà đang sinh sống ở xã V.

2. Cụ Phạm Thị V5, sinh năm 1905; đã chết năm 2007; Có chồng là cụ Lại Văn G2 (đã chết năm 1994). Hai cụ có 05 người con là: Bà Ph2, ông Th, bà Ph, ông Đ và bà Th4, ông S5. Hiện ông Th, bà Ph và ông Đ đang sinh sống tại xóm Chữ, xã V; Bà Ph sinh sống tại thôn Đầm, xã V; Bà Th4 lấy chồng và về quê chồng ở tỉnh Nghệ An, không rõ địa chỉ; ông S5 đã chết có vợ là bà Sợi và 5 người con.

* Vợ hai của cụ L6 là cụ Nguyễn Thị Kh. Hai cụ có 05 người con chung là: Cụ Th4, cụ Ng, cụ Ng (tức Ngon), cụ Thi và cụ Th.

+ Cụ Phạm Văn Th4 sinh năm 1918, đã chết năm 2007; Có vợ là cụ Trần Thị B1 sinh năm 1917 (đã chết năm 1992). Hai cụ có 05 người con là: Ông Th, ông Đ6, bà M, bà T và ông (T2). Ông Đ6 chết liệt sỹ năm 1970, không có vợ con.

+ Cụ Phạm Thị Ng (tức Ngon) sinh năm 1921, đã chết năm 2012; Có chồng là cụ Lại Đ6 T2 (đã chết năm 1981). Hai cụ có 08 người con là: Ông Th1 (cho làm con nuôi cụ L, ông Th1 đã chết năm 1969, có con là anh Th, anh K3), ông N, ông L, ông T, bà M, bà X, bà H và ông L5.

- Cụ Phạm Thị Ng sinh năm 1922, chồng là cụ Trần Văn C6 (đã chết năm 1989). Hiện nay cụ Ng đang ở cùng gia đình người con trai cả là ông Trần Văn Th, ở xóm Đông, thôn Đông Tây, xã V.

- Cụ Phạm Văn Thi, sinh năm 1930; đã chết Liệt sỹ chống Pháp năm 1951, không có vợ con.

- Cụ Phạm Thị Th, sinh năm 1933; hiện đang sinh sống ở xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V.

Ngoài ra, cụ L6, cụ L7 và cụ Kh không có người con riêng, con nuôi nào khác. Giữa các con của cụ L7 với cụ Kh và giữa các con của cụ Kh với cụ L7 không có quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau, ở nhà đất riêng và làm ăn riêng, không liên quan đến nhau.

II. Về tài sản tranh chấp và di sản thừa kế:

Năm 1955, gia đình cụ Phạm Văn L6 được Ủy ban hành chính tỉnh Vĩnh Ph cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất 03 mẫu, 06 sào ruộng tại thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H, trong đó có 12 thước đất ở và 01 sào đất ao.

Đối với thửa đất ở rộng 12 thước Bắc bộ, khi ông bà nội ông còn sống thì các cụ sử dụng và sau này cho cụ L là con trai trưởng sử dụng. Do cụ L có 03 vợ nhưng không có con trai nên khi về già, vợ con không ai nuôi dưỡng, chăm sóc. Bố ông phải làm nhà cho cụ L ở và nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi cụ chết thì đứng ra lo tang ma. Sau khi cụ L chết, nhà đất do bà T là con gái của cụ L và cụ G đi lấy chồng nhiều năm nhưng không có con, bệnh tật ốm yếu phải quay lại nhà bố mẹ đẻ ở, không có người nuôi dưỡng, chăm sóc. Gia đình, dòng họ và chính quyền địa phương đã họp và giao cho bố ông có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc bà T đến khi chết thì lo ma và cụ là người có quyền được hưởng tài sản của cụ L, cụ G để lại. Chính vì vậy, năm 1992, anh Th là con ông Th1 khởi kiện ra Toà án đòi tài sản của vợ chồng cụ L, cụ G do bố ông quản lý. Tòa án đã giải quyết giao cho bố ông sở hữu, sử dụng toàn bộ nhà, đất của vợ chồng cụ L, cụ G và bố ông thanh toán cho anh Th giá trị tài sản được chia bằng tiền mặt và đã thi hành án xong. Quá trình quản lý, sử dụng nhà đất, bố mẹ ông cũng đã giao cho ông Th sử dụng cả hai thửa đất đó từ khi các cụ còn sống. Khi đo đạc lập Bản đồ địa chính 364, ông Th đã chỉ dẫn cán bộ đo đạc đo gộp 02 thửa đất thành 01 thửa số 22, tờ bản đồ số 33, thôn Đông Tây, xã V và đăng ký kê khai chủ sử dụng đất từ đó đến nay. Việc bà Đ2 đề nghị Toà án đưa thửa đất số 22 (1), tờ bản đồ số 33, diện tích 608m2 của gia đình ông Th vào di sản của cụ L6 để chia thừa kế là không đúng, anh chị em ông không chấp nhận.

- Đối với thửa đất vườn và ao: Theo Bản đồ địa chính 299 lập năm 1984 thì thửa đất ao của cụ L6 có số thửa 40, tờ bản đồ số 4b, diện tích 436m2. L7 kề về phía đông thửa ao có thửa đất vườn của bố mẹ ông diện tích 144m2 gia đình ông vẫn sử dụng làm nơi nuôi trâu, bò và chất rơm, rạ.

Khi cụ L và bố mẹ ông còn sống, hai gia đình cùng sử dụng chung thửa ao để thả bèo nuôi lợn, cuối năm cùng tát ao bắt cá chia nhau. Sau khi cụ L và bà T chết, bố ông quản lý, sử dụng cả thửa ao và đăng ký, kê khai chủ sử dụng đất, hàng năm nộp thuế cho Nhà nước theo quy định.

Năm 1995, lập Bản đồ địa chính 364, ông Th đã chỉ dẫn cán bộ đo đạc đo gộp cả thửa đất vườn của bố mẹ ông vào cùng với thửa ao của cụ L6, tạo thành thửa số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 580m2. Thửa đất có vị trí: Phía bắc giáp ao nhà ông Lại Đ6 C2; Phía nam giáp tiểu ngõ; Phía đông giáp đất nhà ông T3; Phía tây giáp đường làng. Toàn bộ diện tích 144m2 đất vườn của bố mẹ ông nằm về phía đông của thửa ao.

Năm 2005, bà Đ2 tự ý san lấp mặt bằng thửa ao, làm nhà để ở và xây tường, làm vườn trồng rau cả hai thửa đất. Bố ông đã làm đơn gửi ra xã đề nghị ngăn chặn nhưng bà Đ2 vẫn cố tình san lấp, xây dựng các công trình và sử dụng như hiện nay. Năm 2006, bố ông có đơn khởi kiện đến Tòa án để giải quyết tranh chấp đòi quyền sử dụng đất với bà Đ2. Tòa án nhân dân thành phố H đã xác định thửa ao có nguồn gốc là của cụ L6 để lại có diện tích 436m2, đất vườn của bố ông diện tích 144m2, nhưng do đất ao không có các loại giấy tờ theo quy định của Luật Đất đai nên tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, từ đó huỷ án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Đ, chuyển vụ việc cho Ủy ban nhân dân giải quyết.

Năm 2007, sau khi bố ông chết, anh em ông mới tìm thấy Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất do Ủy ban hành chính tỉnh Vĩnh Ph cấp cho cụ L6 năm 1955. Ông đã đề nghị xã tổ chức hoà giải giữa anh chị em ông với bà Đ2, để hai bên chia nhau mỗi bên sử dụng ½ thửa ao nhưng bà Đ2 không nghe. Các anh chị ông thống nhất, cử ông đại diện làm đơn khởi kiện đòi 144m2 đất vườn của bố mẹ ông và chia thừa kế diện tích 436m2 đất ao của cụ L6 theo quy định của pháp luật.

Việc cụ Ng (tức Ngon) do ông Th đại diện, cụ Th và các con cụ V5 tự nguyện cho anh chị em ông hưởng kỷ phần thừa kế tài sản của cụ L6, cụ Kh mà các cụ được chia, ông đồng ý nhận và đề nghị được chia chung với kỷ phần thừa kế của bố ông được chia; DT 144m2 đất vườn liền kề DT đất ao cũng thuộc thửa 25 tờ bản đồ số 33 là của cụ Th4 là bố ông để lại, đề nghị Tòa án buộc bà Đ2 trả lại cho ông sử dụng.

Ti Bản tự khai ngày 18 tháng 02 năm 2019 và Đơn yêu cầu chia thừa kế tài sản (yêu cầu phản tố) ngày 22 tháng 06 năm 2020 và quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, bị đơn là bà Phạm Thị Đ2, người đại diện theo ủy quyền của bà Đ2 là anh Phạm X H trình bày:

Nhất trí với lời khai của ông T2 về quan hệ hôn nhân, huyết thống của cụ L6.

Khi cụ L và cụ T3 còn sống, hai cụ đã quản lý, sử dụng 01 mảnh vườn rộng 428m2 và 01 thửa ao rộng 436m2 ở xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V. Theo tờ Bản đồ 299 lập năm 1986 thì thửa ao có số thửa 40, tờ bản đồ số 4b, diện tích 436m2, mang tên Phạm Văn L. Năm 1996, thửa ao có số thửa 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 580m2là gộp cả diện tích đất vườn thửa bên cạnh. Bố, mẹ bà là cụ L chết năm 1982 không để lại di chúc về tài sản. Sau khi cụ L chết, trong gia đình bà đã họp và thống nhất cho vợ, con của ông Th1 (con nuôi của cụ L và cụ G) sử dụng mảnh vườn, còn thửa ao thì để mẹ, con bà sử dụng. Năm 1992, anh Th con trai ông Th1 khởi kiện chia thừa kế để đòi lại mảnh vườn cùng gian nhà của cụ L trên mảnh vườn này và Tòa án đã giao cho cụ Th4 quản lý, sử dụng nhà và DT 390m2 đất vườn của cụ L trên cơ sở ông Th4 phải trả cho anh Th số tiền là 2.000.000đ. C6n thửa ao thì sau khi cụ T3 qua đời (2004), các chị em bà giao cho bà toàn quyền sử dụng và nộp thuế sử dụng đất hàng năm, làm thủ tục kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2005, bà mua đất san lấp ao, xây một ngôi nhà làm nơi thờ cúng tổ tiên trên đất ao này và trông nom hàng ngày. Năm 2005, cụ Th4 là bố ông T2 có đơn khởi kiện bà đến Tòa án để giải quyết tranh chấp thửa ao DT 436m2 nhưng do đất không có giấy tờ nên Toà án đình chỉ giải quyết vụ án.

Bà xác định thửa đất ao DT 436m2 có nguồn gốc là của cụ L6 nhưng đã cho bố mẹ bà từ khi cụ còn sống, bà không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của ông T2 về thửa ao này. Anh H đại diện theo ủy quyền của bà Đ2 đề nghị nếu chia thừa kế 436m2 đất ao thì đề nghị Toà án trích công sức cho mẹ con anh trong việc san lấp ao và quản lý, duy trì tài của các cụ trước khi chia thừa kế; Đối với DT 144 m2 đất vườn thì cụ L sử dụng và để lại cho bà Đ2, không phải đất của ông Th4 nên không đồng ý trả lại ông T2.

Bà Đ2 có đơn phản tố: Đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp cho ông Th (con cụ Th4) năm 2011 về DT đất 608m2 thuộc thửa đất số 22 (1), tờ bản đồ số 33 và yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ L6 đối với DT đất này vì cho rằng thửa đất số 22(1) có nguồn gốc của cụ L6 UBND tỉnh Vĩnh Ph cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất từ năm 1955, chưa chia cho ai, bà không hề được biết việc ông Th kê khai xin cấp giấy chứng nhận năm 2011.

Việc các con của cụ Ng, cụ V5 tự nguyện cho chị em bà và ông Th hưởng kỷ phần thừa kế tài sản của cụ L6, cụ L7 và cụ Kh, ông Th đã tự nguyện giao cho bà đại diện nhận, bà đồng ý và đề nghị Toà án chia cùng với kỷ phần thừa kế tài sản của cụ L được chia để bà sử dụng.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án:

1. Ông Phạm Ngọc Th, bà Phạm Thị M và bà Phạm Thị T8 là các con cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B1: Cùng có lời khai và quan điểm thống nhất với ông T2, xác định thửa ao diện tích 436m2 là tài sản của cụ L6 để lại. Các ông, bà cho rằng thửa đất vườn có DT 144m2 liền kề với thửa ao và thửa đất gia đình ông Th đang quản lý, sử dụng là của bố mẹ các ông bà để lại, không liên quan đến thừa kế của cụ L6. Các ông, bà đồng ý để ông T2 đại diện nhận quyền sử dụng đất của bố mẹ để lại và được chia thừa kế của cụ L6, cụ Kh.

Ông Th khai thêm: Thửa đất số 22, tờ bản đồ số 33, thuộc xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V hiện gia đình ông đang quản lý, sử dụng có tổng DT 1.130m2 nguyên là của ông nội ông là cụ Phạm Văn L6. Khi còn sống, cụ L6 đã chia cho cụ L là bố bà Đ2 và cụ Th4 là bố ông sử dụng riêng mỗi người 01mảnh, trong đó cụ L sử dụng 390m2, bố mẹ ông sử dụng 608m2. Sau khi vợ chồng cụ L, cụ G và bà T chết (bà T là con cụ L, không có chồng con) gia đình ông đã sử dụng cả thửa đất. Năm 1992, khi giải quyết tranh chấp thừa kế giữa anh Th và cụ Th4 là bố ông, Tòa án đã giao cho bố ông toàn bộ nhà, đất của cụ L, cụ G và bố ông thanh toán cho anh Th giá trị tài sản bằng tiền mặt. Bố mẹ ông cũng đã cho ông toàn bộ diện tích đất 1.130m2 từ khi các cụ còn sống. Quá trình quản lý, sử dụng đất, ông kê khai chủ sử dụng, nộp thuế đất hàng năm đối với diện tích 1.130m2 và được Ủy ban nhân dân huyện Đ cấp “sổ đỏ” đối với diện tích 608m2 thửa đất số 22 (1), tờ bản đồ số 33, từ năm 2011. Ngôi nhà 03 tầng và các công trình xây dựng trên đất là do ông làm, có công sức đóng góp của vợ chồng con trai ông là anh Tr, chị T. V5 Cau và cây ăn quả trên đất là do ông trồng. Ông xác định toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là của gia đình ông, không phải là tài sản của cụ L6 như bà Đ2 khai nên ông và các con ông không liên quan đến vụ án, không có nghĩa vụ khai báo và đến Tòa án làm việc. Vì vậy, Tòa án đừng bao giờ triệu tập bố con ông làm gì.

2. Cụ Phạm Thị Th và ông Trần Văn Th là đại diện cho cụ Phạm Thị N (vợ cụ Trần văn C) cùng có lời khai và ý kiến bằng văn bản nhất trí với quan điểm giải quyết tranh chấp của ông Phạm Văn T2. Hai cụ tự nguyện cho các con của cụ Th4 hưởng toàn bộ kỷ phần thừa kế tài sản của cụ L6, cụ Kh mà hai cụ được chia.

3. Các con cụ Phạm Thị N (tức Ngon, vợ cụ Lại Đức T2) là: Ông N, ông L, ông T, bà M, bà H, bà X và ông L5 có văn bản thống nhất cho ông Phạm Văn Th là con ông Th1 toàn bộ kỷ phần thừa kế mà cụ Ng được chia của cụ L6, cụ Kh.

4. Các ông bà: Lại Thị Ph1, bà Lại Thị Ph2 và ông Lại Văn Đ (Là các con của cụ Phạm Thị V5) cùng có lời khai và quan điểm không nhận hưởng kỷ phần thừa kế của cụ V5 được chia mà để các con cụ L, cụ Th4 chia nhau cùng hưởng.

Ông Lại Văn Th khai: Nếu cụ V5 được hưởng thừa kế của cụ L6 thì ông sẽ đại diện các anh chị em ông nhận kỷ phần của cụ V5.

5. Các bà: Phạm Thị Đ, Phạm Thị K, Phạm Thị Ng, Phạm Thị Ĺ (tức V) (Là các con của vợ chồng cụ L- T3); Các ông bà: Lại Thị L, Lại Thị L, Lại Đức Q, Lại Thị S và Lại Đức V2 (Là các con của bà Phạm Thị Đ1); Ông Lại Văn Đ(Là con bà Phạm Thị Nh) cùng có lời khai: Nhất trí lời khai của bà Đ2 và tự nguyện cho bà Đ2 đại diện nhận toàn bộ kỷ phần thừa kế cụ L được hưởng của cụ L6. Ông Phạm Văn Th (Là con ông Phạm Văn Th1) tự nguyện giao cho bà Đ2 nhận kỷ phần thừa kế của cụ L và phần thừa kế các con cụ V5 cho ông.

6. Ông Phạm Q và bà Nguyễn Thị T không gửi (nộp) cho Toà án ý kiến bằng văn bản về việc tranh chấp giữa các bên; Từ chối khai báo khi Toà án tiến hành lấy lời khai, không có mặt theo giấy triệu tập của Toà án.

7. Uỷ ban nhân dân huyện Đ có Văn bản số 191/UBND-TNMT ngày 25 tháng 01 năm 2021 gửi Toà án với nội dung: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu đối với thửa đất số 22 (1), tờ bản đồ số 33, diện tích 608m2, tại thôn Đông Tây, xã V huyện Đ cho ông Phạm Ngọc Th được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại thời điểm cấp giấy chứng nhận. Trong quá trình xem xét, cấp giấy chứng nhận cho ông Th, Uỷ ban nhân dân huyện không nhận được bất cứ đơn thư, khiếu nại nào có liên quan. Đề nghị Toà án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn tại phiên tòa sơ thẩm nêu luận điểm:

- Nhất trí với lời khai của các bên về quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống của vợ chồng cụ Phạm Văn L6; Về thời điểm mở thừa kế của vợ chồng cụ L6.

- Về quyền sử dụng đất tranh chấp:

+ Quyền sử dụng đất thửa số 25, diện tích 580m2 (thực đo là 575m2) và thửa đất số 22 (1), tờ bản đồ số 33, diện tích 608m2, cùng địa chỉ: Thôn Đông Tây, xã V được Uỷ ban hành chính tỉnh Vĩnh Ph cấp cho gia đình cụ Phạm Văn L6 theo Giấy chứng nhận ruộng đất năm 1955.

Việc ông T2 cho rằng gia đình cụ Th4 có 144m2 đất vườn liền kề về phía đông của thửa ao và đòi bà Đ2 trả nhưng không phù hợp với vị trí của thửa đất được xác định trên bản đồ 299 nên không có cơ sở.

Đối với thửa đất số 22(1), tờ bản đồ số 33, diện tích 608m2 hiện gia đình ông Phạm Ngọc Th quản lý, sử dụng hoàn toàn phù hợp với vị trí và tương đương với diện tích 01 sào, 12 thước đất ở cụ L6 được giao theo Giấy chứng nhận ruộng đất năm 1955. Theo hồ sơ ông Th kê khai cấp giấy chứng nhận của thửa đất cũng ghi nguồn gốc đất là ông cha để lại, cho thấy thửa đất thuộc di sản của vợ chồng cụ L6 chưa chia cho ai và các cụ không có di chúc.

Đề nghị Toà án căn cứ vào quy định tại các Điều: 610, 611, 613, 623, 649, 650, 652, khoản 2 Điều 660 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 100, 101, 166, 167 Luật Đất đai 2013, xử:

- Bác yêu cầu của ông Phạm Văn T2 về đòi quyền sử dụng 144m2 đất vườn có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 580m2 (thực đo 575m2) tại địa chỉ: Thôn Đông Tây, xã V.

- Chấp nhận đơn phản tố của bà Phạm Thị Đ2, chia thừa kế tài sản của cụ Phạm Văn L6 để lại là quyền sử dụng 580m2 đất của thửa số 25, tờ bản đồ số 33 và 608m2 đất của thửa số 22(1), tờ bản đồ số 33, thuộc: Thôn Đông Tây, xã V cho các thừa kế của cụ Phạm Văn L6 hưởng theo pháp luật và chia bằng hiện vật là quyền sử dụng đất cho các bên cùng sử dụng.

- Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện Đ thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Phạm Ngọc Th ngày 14 tháng 11 năm 2011.

Bản án dân sự sơ thẩm số 223/2021/DSST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện đòi quyền sử dụng đất và chia thừa kế tài sản của ông Phạm Văn T2 đối với bà Phạm Thị Đ2.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Phạm Thị Đ2 về chia thừa kế đối với thửa đất số 22(1), tờ bản đồ số 33, diện tích 608m2, thuộc địa chỉ: Thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H và yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 503451 ngày 14 tháng 11 năm 2011 do Uỷ ban nhân dân huyện Đ chấp cho ông Phạm Ngọc Th.

3. Xác định vợ chồng cụ Phạm Văn Th4 và cụ Trần Thị B có tài sản chung là 144m2 đất vườn có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 580m2 (thực đo là 575m2), thuộc địa chỉ: Thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H, trị giá: 1.440.000.000đ (Một tỷ, bốn trăm bốn mươi triệu đồng).

Buộc bà Phạm Thị Đ2 có trách nhiệm trả cho các con của cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B (Do ông Phạm Văn T2 đại diện nhận) 144m2 đất có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H.

4. Xác định tài sản chung của ba vợ chồng cụ Phạm Văn L6, cụ Vũ Thị L7 và cụ Nguyễn Thị Kh là: Quyền sử dụng 431m2 đất ao có trong thửa số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích 580m2 (Thực đo là 575m2), thuộc địa chỉ: Thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H, trị giá: 4.310.000.000đ (B tỷ, ba trăm mười triệu đồng).

Trích công sức san lấp ao cho bà Phạm Thị Đ2 và anh Phạm X H hưởng là 89.680.000đ (Tám mươi chín triệu sáu trăm tám mươi ngàn đồng).

Tài sản chung của các cụ còn để chia là: 4.310.000.000đ - 89.680.000đ = 4.220.320.000đ (B tỷ, hai trăm hai mươi triệu, hai trăm ba mươi ngàn đồng). Chia cho cụ L6, cụ L7 và cụ Kh mỗi cụ hưởng 1/3 là: 4.220.320.000đ : 3 = 1.406.773.300đ (Một tỷ, bốn trăm linh sáu triệu, bẩy trăm bẩy mươi ba ngàn, ba trăm đồng).

5. Xác định di sản thừa kế; Thời điểm mở thừa kế và phân chia di sản thừa kế của vợ chồng cụ Phạm Văn L6 như sau:

5.1. Di sản của cụ Vũ Thị L7 có là 1/3 tài sản chung với cụ Phạm Văn L6, cụ Nguyễn Thị Kh trị giá: 1.406.773.300đ (Một tỷ, bốn trăm linh sáu triệu, bẩy trăm bẩy mươi ba ngàn, ba trăm đồng).

Xác định thời điểm mở thừa kế của cụ Vũ Thị L7 là ngày 22 tháng 08 năm 1960. Cụ L7 không để lại di chúc về tài sản, di sản được chia cho hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của cụ gồm 03 người là chồng và 02 người con là: Cụ Phạm Văn L6, cụ Phạm Văn L và cụ Phạm Thị Vườn mỗi người hưởng 1/3 là:

1.406.773.300đ : 3 = 468.924.400đ (B trăm sáu mươi tám triệu, chín trăm hai mươi bốn ngàn, bốn trăm đồng).

5.2. Di sản của cụ Phạm Văn L6 có là:

- 1/3 tài sản chung với cụ L7, cụ Kh: 1.406.773.300đ - 01 kỷ phần thừa kế của cụ L7 : 468.924.400đ Cộng: 1.875.697.700đ (Một tỷ, tám trăm bẩy mươi lăm triệu, sáu trăm chín mươi bẩy ngàn, bẩy trăm đồng).

Xác định thời điểm mở thừa kế của cụ Phạm Văn L6 là ngày 14 tháng 04 năm 1962. Cụ L6 không để lại di chúc về tài sản, di sản được chia cho hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của cụ gồm vợ và 06 con là 07 người: Cụ Nguyễn Thị Kh, cụ Phạm Văn L, cụ Phạm Thị Vườn, cụ Phạm Văn Th4, cụ Phạm Thị N (T2), cụ Phạm Thị N (tức Ngon) và cụ Phạm Thị Th mỗi người hưởng 1/7 là: 1.875.697.700 đồng : 7 = 267.956.800đ (Hai trăm sáu mươi bẩy triệu chín trăm năm mươi sáu ngàn tám trăm đồng).

5.3. Di sản của cụ Nguyễn Thị Kh có là:

- 1/3 tài sản chung với cụ L6, cụ L7: 1.406.773.300đ - 01 kỷ phần thừa kế của cụ L6 : 267.956.800đ Cộng : 1.674.730.100đ (Một tỷ sáu trăm bẩy mươi tư triệu, bẩy trăm ba mươi ngàn, một trăm đồng). Xác định thời điểm mở thừa kế của cụ Nguyễn Thị Kh là ngày 03 tháng 08 năm 1962. Cụ Kh không để lại di chúc về tài sản, di sản được chia cho hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của cụ gồm 04 người con là: Cụ Phạm Văn Th4, cụ Phạm Thị N (T2), cụ Phạm Thị N (Tức Ngon) và cụ Phạm Thị Th mỗi người hưởng 1/4 là: 1.674.730.100đ : 4 = 418.682.500đ (B trăm mười tám triệu, sáu trăm tám mươi hai ngàn, năm trăm đồng).

* Cụ Phạm Văn L được hưởng tài sản thừa kế là:

- 01 kỷ phần thừa kế của cụ L6 : 267.956.800đ - 01 kỷ phần thừa kế của cụ L7: 468.924.400đ Cộng là: 736.881.200đ (Bẩy trăm ba mươi sáu triệu, tám trăm tám mươi mốt ngàn, hai trăm đồng).

* Cụ Phạm Thị Vườn được hưởng tài sản thừa kế là:

- 01 kỷ phần thừa kế của cụ L6 : 267.956.800đ - 01 kỷ phần thừa kế của cụ L7: 468.924.400đ Cộng là: 736.881.200đ (Bẩy trăm ba mươi sáu triệu, tám trăm tám mươi mốt ngàn, hai trăm đồng).

Ghi nhận sự tự nguyện của các con cụ Phạm Thị Vườn cho các con cụ Phạm Văn L và cụ Phạm Văn Th4 hưởng kỷ phần thừa kế của cụ Vườn được chia mỗi bên ½ là: 736.881.200đ : 2 = 368.440.600 đồng (Ba trăm sáu mươi bốn triệu, bốn trăm bốn mươi ngàn, sáu trăm đồng).

* Cụ Phạm Văn Th4 được hưởng tài sản thừa kế là:

- 01 kỷ phần thừa kế của cụ L6 : 267.956.800đ - 01 kỷ phần thừa kế của cụ Kh: 418.682.500đ Cộng là: 686.639.300đ (Sáu trăm tám mươi sáu triệu, sáu trăm ba mươi chín ngàn, ba trăm đồng).

* Cụ Phạm Thị N được hưởng tài sản thừa kế là:

- 01 kỷ phần thừa kế của cụ L6 : 267.956.800đ - 01 kỷ phần thừa kế của cụ Kh: 418.682.500đ Cộng là: 686.639.300đ (Sáu trăm tám mươi sáu triệu, sáu trăm ba mươi chín ngàn, ba trăm đồng). Ghi nhận sự tự nguyện của các con của cụ Phạm Thị N (Tức Ngon, vợ, cụ Lại Đ6 T2) cho ông Phạm Văn Th hưởng toàn bộ tài sản của cụ N được chia thừa kế. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Phạm Văn Th, giao cho bà Phạm Thị Đ2 đại diện nhận phần tài sản thừa kế ông được các con của cụ Phạm Thị N (Tức Ngon, vợ cụ Lại Đ6 T2) cho chung với phần tài sản thừa kế của cụ Phạm Văn L được chia.

* Cụ Phạm Thị N (vợ cụ Trần văn C) được hưởng tài sản thừa kế là:

- 01 kỷ phần thừa kế của cụ L6 : 267.956.800đ - 01 kỷ phần thừa kế của cụ Kh: 418.682.500đ Cộng là: 686.639.300đ (Sáu trăm tám mươi sáu triệu, sáu trăm ba mươi chín ngàn, ba trăm đồng).

Ghi nhận sự tự nguyện của cụ Phạm Thị N (vợ cụ Trần Văn C) do ông Trần Văn Th đại diện cho các con của cụ Phạm Văn Th4 hưởng toàn bộ tài sản thừa kế của cụ được chia.

* Cụ Phạm Thị Th được hưởng tài sản thừa kế là:

- 01 kỷ phần thừa kế của cụ L6 : 267.956.800đ - 01 kỷ phần thừa kế của cụ Kh: 418.682.500đ Cộng là: 686.639.300đ (Sáu trăm tám mươi sáu triệu, sáu trăm ba mươi chín ngàn, ba trăm đồng). Ghi nhận sự tự nguyện của cụ Phạm Thị Th cho các con của cụ Phạm Văn Th4 (Do ông Phạm Văn T2 đại diện) hưởng toàn bộ tài sản thừa kế của cụ được chia.

6. Các con của cụ Phạm Văn L được nhận tài sản tổng cộng là:

- Phần tài sản của cụ L được chia : 736.881.200đ - Phần tài sản của cụ N được chia : 686.639.300đ - 1/2 phần tài sản của cụ Vườn được chia: 368.440.600đ Cộng: 1.791.961.100đ (Một tỷ, bẩy trăm chín mươi mốt triệu, chín trăm sáu mươi mốt ngàn, một trăm đồng).

7. Các con cụ Phạm Văn Th4 được nhận tài sản tổng cộng là:

- Phần tài sản của cụ Th4 được chia : 686.639.300đ - Phần tài sản của cụ Th được chia : 686.389.300đ - Phần tài sản của cụ N (C) được chia: 686.389.300đ - 1/2 phần tài sản của cụ Vườn được chia : 368.440.600đ Cộng: 2.428.358.500đ (Hai tỷ, bốn trăm hai mươi tám triệu, ba trăm năm mươi tám ngàn, năm trăm đồng).

8. Ghi nhận sự thoả thuận của các con, cháu của cụ Phạm Văn L giao cho bà Phạm Thị Đ2 đại diện nhận tài sản của cụ L được chia. Trường hợp các bên có tranh chấp và có đơn khởi kiện, sẽ được Toà án giải quyết bằng vụ án dân sự khác về chia tài sản chung theo quy định của pháp luật.

9. Ghi nhận sự thoả thuận của các con cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B giao cho ông Phạm Văn T2 đại diện nhận tài sản là: Quyền sử dụng 144m2 đất vườn của cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B và quyền sử dụng 242,84m2 đất ao cụ Phạm Văn Th4 được chia thừa kế. Trường hợp các bên có tranh chấp và có đơn khởi kiện, sẽ được Toà án giải quyết bằng vụ án dân sự khác về chia tài sản chung theo quy định của pháp luật.

10. Giao tài sản cho các bên như sau:

10.1. Giao cho ông Phạm Văn T2 (Là đại diện cho các con cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B) nhận sử dụng 144m2 đất vườn có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích thực đo là 575m2, thuộc địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H, trị giá 1.440.000.000đ (Một tỷ, bốn trăm bốn mươi triệu đồng).

10.2. Giao cho ông Phạm Văn T2 (Là đại diện cho các con cụ Phạm Văn Th4) nhận sử dụng 242,84m2 đất ao có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích thực đo là 575m2, thuộc địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H, trị giá 2.428.400.000đ (Hai tỷ, bốn trăm hai mươi tám triệu, bốn trăm ngàn đồng).

10.3. Giao cho bà Phạm Thị Đ2 (Là đại diện cho các con cụ Phạm Văn L) sử dụng 188,16m2 đất ao có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích thực đo là 575m2, thuộc địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H, trị giá 1.881.600.000đ (Một tỷ, tám trăm tám mươi mốt triệu, sáu trăm ngàn đồng) (Trong đó có: 89.680.000 đồng là công sức san lấp ao của bà Phạm Thị Đ2, anh Phạm X H).

11. Giao và làm ranh giới đất cho các bên:

11.1. Giao cho ông Phạm Văn T2 (Là đại diện cho các con cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B) nhận sử dụng 144m2 đất vườn có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích thực đo là 575m2, thuộc địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H có các cạnh: Phía bắc giáp đất nhà ông Cự có kích thước 7,48m; Phía nam giáp đường đi có kích thước 7,46m; Phía đông giáp đất nhà ông T3 (Con là ông Bính đang ở) có kích thước 18,78m; Phía tây có kích thước là 19,88m (Trong đó: Đoạn phía đông nam giáp đất ao được giao là 10,97m; đoạn phía tây nam giáp đất của các con cụ L được giao có kích thước là 8,91m). (Được giới hạn bởi các điểm: 3, 4, 5, 6, 13, 3).

11.2. Giao cho ông Phạm Văn T2 (Là đại diện cho các con cụ Phạm Văn Th4) sử dụng 242,84m2 đất ao có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích thực đo là 575m2, thuộc địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H có các cạnh: Phía bắc giáp đất của các con cụ L được giao (Do bà Đ2 đại diện) có kích thước 21,25m; Phía nam giáp đường đi có kích thước các đoạn từ đông sang tây là: 6,20m + 0,99m + 13,76m và 0,60m; Phía đông giáp đất vườn của cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B (Do ông T2 đại diện) có kích thước 10,97m; Phía tây giáp đường đi có kích thước các đạn từ nam lên bắc là: 9,39m + 1,29m. (Được giới hạn bởi các điểm: 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 6).

11.3. Giao cho bà Phạm Thị Đ2 (Là đại diện cho các con cụ Phạm Văn L) sử dụng 188,16m2 đất ao có trong thửa đất số 25, tờ bản đồ số 33, diện tích thực đo là 575m2, thuộc địa chỉ: Xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H có các cạnh: Phía bắc giáp đất ông Cự có kích thước các đoạn từ đông sang tây là 4,15m + 16,92m; Phía nam giáp đất ao của cụ Phạm Văn Th4 (Do ông T2 đại diện) có kích thước 21,25m; Phía đông giáp đất vườn của cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B (Do ông T2 đại diện) có kích thước 8,91m; Phía tây giáp đường đi có kích thước 8,90m. (Được giới hạn bởi các điểm:

1, 2, 3, 13, 12, 1).

(Có sơ đồ chia đất kèm theo).

12. Buộc gia đình bà Phạm Thị Đ2, anh Phạm X H phải tự tháo dỡ, di rời các công trình xây dựng có trên diện tích 144m2 đất vườn và 242,84m2 đất ao của cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B (Do ông T2 đại diện) được giao để trả lại mặt bằng đất cho các con cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B sử dụng mà không được bồi thường thiệt hại về tài sản.

13. Ông Phạm Văn T2 (Là đại diện cho các con của vợ chồng cụ Phạm Văn Th4, cụ Trần Thị B); Bà Phạm Thị Đ2 (Là đại diện cho các con cụ Phạm Văn L) có quyền tự liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai đối với diện tích đất được giao sử dụng theo theo bản án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo.

Bà Đ2 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Nguyên đơn ông T2 trình bày: Đối với diện tích 144 m2 ông kiện đòi bà Đ2 trả lại thì ông được biết trước đây cụ Th4 là bố ông có sử dụng chất đống rơm, rạ, làm chuồng trâu, trồng tre, còn về giấy tờ thì không không có giấy tờ gì thể hiện đất này là của cụ Th4 để nộp cho Tòa án; Ông cũng không biết DT đất này theo bản đồ năm 1986 đứng tên ai? C6n DT 436 m2 đất ao ông đề nghị chia thừa kế của cụ L6 chính là DT đất 01 sào ao mà cụ L6 được UBND tỉnh Vĩnh Ph cấp GCNQSHRĐ năm 1955, DT đất chênh lệch là do trước đây đất bờ ao bị sạt lở. C6n DT đất 608 m2 hiện do ông Th đang quản lý, sử dụng mà bà Đ2 yêu cầu chia thừa kế cũng có nguồn gốc của cụ L6 để lại nhưng cụ L6 chỉ có 12 thước theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất năm 1955, còn lại là do ông Th mua thêm. Ông T2 đề nghị Tòa án không chấp nhận kháng cáo của bà Đ2, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Anh H là đại diện theo ủy quyền của bà Đ2 đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Đ2: Đề nghị tăng kỷ phần công sức của gia đình anh đối với thửa ao 436m2 và đề nghị chia toàn bộ thửa ao này cho gia đình anh trên cơ sở gia đình anh thanh toán lại cho các thừa kế khác bằng tiền; không chấp nhận yêu cầu đòi 144m2 đất của ông T2 vì đất này từ trước đến nay đều do gia đình anh sử dụng, không phải của cụ Th4 bố ông T2; đề nghị chia thừa kế của cụ L6 đối với DT đất 608 m2 đất thửa 22 (1) vì thửa đất này của cụ L6 được cấp GCNQSHRĐ từ năm 1955, chưa chia cho ai.

Luật sư K nêu bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Đ2 và đề nghị:

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Đ2 có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Th và chia thừa kế đối với DT 608 m2 đất thửa 22 (1). Bản án sơ thẩm chỉ xác định quan hệ pháp luật phải giải quyết là tranh chấp quyền sử dụng đất và chia thừa kế là xác định thiếu yêu cầu của đương sự.

- Đối với DT 436 m2 đất ao: Bà Đ2 đồng ý chia thừa kế theo pháp luật nhưng đề nghị trích công sức cho bà Đ2 hợp lý vì gia đình bà Đ2 có công san lấp, tôn tạo, duy trì và đóng thuế đất từ xưa đến nay; đề nghị chia toàn bộ thửa đất ao cho bà Đ2 trên cơ sở bà Đ2 sẽ thanh toán lại cho các thừa kế khác bằng tiền vì bà Đ2 đang là người sử dụng ổn định đất này.

- Đối với DT đất 144 m2: Theo bản đồ 299 năm 1986 thì DT đất 144m2 thuộc thửa đất số 39 đứng tên cụ T3. Nguyên đơn đi kiện đòi đất này không xuất trình được tài liệu chứng cứ nào thể hiện đất là của cụ Th4. Bà Đ2 sử dụng đất này từ nhiều năm nay và các con cụ T3 đều có ý kiến không tranh chấp với bà Đ2 nên cần xác định đất này của bà Đ2. Đề nghị HĐXX không chấp nhận yêu cầu đòi đất của ông T2.

- Đối với DT đất 608 m2: Tất cả các đương sự đều xác định có nguồn gốc của cụ L6. Theo xác nhận của UBND xã V thì 12 thước đất ở mà cụ L6 được cấp Giấy chứng nhận năm 1955 có vị trí trùng với vị trí thửa đất 608 m2 này. Nguyên đơn ông T2 và ông Th không xuất trình được chứng cứ về việc cụ Th4 được cụ L6 cho. Do vậy, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Đ2, đưa 608 m2 thửa 22 (1) vào chia thừa kế cho các thừa kế của cụ L6, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng dất do UBND huyện Đ cấp cho ông Th.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu ý kiến:

* Về việc chấp hành pháp luật tố tụng - Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện hoàn toàn đầy đủ các qui định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, chấp hành các thông báo, quyết định tố tụng của Tòa án. Ông Th đã được triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng vắng mặt nên việc HĐXX xử vắng mặt ông Th là đúng quy định.

* Về đường lối giải quyết vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đại diện Viện Kiểm sát trình bày quan điểm và đề nghị:

- Đối với DT 144m2đất vườn liền kề đất ao 436m2: Không có căn cứ xác định đất này là của cụ Th4 nên yêu cầu khởi kiện đòi đất của ông T2 đối với bà Đ2 là không có căn cứ chấp nhận.

- Đối với 608m2 thửa 22(1) mà bà Đ2 đề nghị xác định là di sản thừa kế của cụ L6: Có căn cứ xác định cụ Th4 được cụ L6 chia.

- Đối với DT 436 m2 đất ao ông T2 đề nghị chia thừa kế: Tòa cấp sơ thẩm chưa đưa bà Th4 là con gái cụ V5, bà Sợi là vợ và các con của ông S5 (con trai cụ V5) tham gia tố tụng là bỏ sót người tham gia tố tụng.

Do vậy, đề nghị HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật TTDS, hủy một phần bản án sơ thẩm về vấn đề chia thừa kế để xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nhận định:

[I]. Về tố tụng:

1.1. Về việc vắng mặt của một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Tại phiên tòa hôm nay, trong số những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ có bà M, bà T, anh H, anh Tr có mặt, ông Th và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác vắng mặt hai lần liên tiếp. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người này là đúng quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.

1.2. Về việc thụ lý yêu cầu khởi kiện của đương sự:

Đơn khởi kiện của ông Phạm Văn T2 chỉ đề nghị chia thừa kế theo pháp luật di sản của cụ L6, cụ Kh là thửa đất ao số 25, TBĐ số 33, có DT 436m2 thuộc xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H. Tại đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện, ngoài yêu cầu chia thừa kế thửa đất ao nêu trên, ông T2 còn đề nghị xác định 144m2 đất còn lại của thửa đất số 25, TBĐ số 33 xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H là của bố ông là cụ Phạm Văn Th4. Đây là yêu cầu mới của nguyên đơn nhưng không được Tòa cấp sơ thẩm yêu cầu ông T2 nộp tạm ứng án phí và không có thông báo thụ lý bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng vẫn giải quyết yêu cầu bổ sung này của nguyên đơn là thiếu sót.

1.3. Về quan hệ pháp luật:

Nguyên đơn ông T2 đề nghị chia thừa kế theo pháp luật di sản của cụ L6, cụ Kh đối với DT đất ao 436m2 thuộc thửa đất số 25, TBĐ số 33, xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H mà bà Đ2 đang quản lý, sử dụng; Đề nghị xác định 144m2 đất liền kề ao là của bố ông là cụ Phạm Văn Th4 để lại, bà Đ2 phải trả lại ông diện tích đất này. Bị đơn bà Đ2 có yêu cầu phản tố đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Phạm Ngọc Th và chia thừa kế theo pháp luật di sản của cụ L6 đối với DT 608m2đất thửa số 22 (1), tờ bản đồ số 33, xóm Tây, thôn Đông Tây, xã V, huyện Đ, thành phố H. Như vậy, quan hệ pháp luật của vụ án là: Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chia thừa kế quyền sử dụng đất. Tòa cấp sơ thẩm chỉ xác định quan hệ pháp luật là: Tranh chấp quyền sử dụng đất và thừa kế là xác định thiếu quan hệ pháp luật.

II. Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của đương sự, thấy:

2.1. Về việc xác định thời điểm mở thừa kế của cụ L6:

Trong các đơn khởi kiện, bản khai, nguyên đơn ông T2 đều khai thời điểm chết của cụ L6 là năm 1964. Ông Th là anh trai ông T2 và bà M, bà T, bà Đ2 cũng khai cụ L6 chết năm 1964. Tại phiên tòa hôm nay, ông T2, bà M, bà T, anh H (đại diện cho bà Đ2) vẫn khẳng định cụ L6 chết sau cụ Kh và chết năm 1964, không phải chết năm 1962 như bản án sơ thẩm xác định. Tại Công văn số 277/UBND-CV ngày 19/11/2020 của UBND xã V cung cấp cho Tòa án huyện Đ có nội dung: “Hiện tại UBND xã V chỉ lưu trữ được sổ đăng ký khai tử từ năm 1964 đến nay. Vậy cung cấp trích lục khai tử cho các cụ có tên sau: Cụ Phạm Văn L6 sinh năm 1983, chết ngày 14/4/1962, cụ Vũ Thị L7 sinh năm 1980, chết ngày 22/8/1960, cụ Nguyễn Thị Kh chết ngày 03/8/1962”. Tại Công văn số 219/CV-UBND ngày 15/10/2021 của UBND xã V “Về việc đính chính sai sót trong Công văn số 277/UBND-CV ngày 19/11/2020” thể hiện nội dung đính chính như sau: “Hiện tại UBND xã V chỉ còn lưu giữ được sổ đăng ký khai tử từ năm 1964 trở lại đây. Một số trang trong sổ đăng ký khai tử từ năm 1964 đến 1990 bị rách nát, thông tin không còn chuẩn xác. Vì vậy, UBND xã V không có cơ sở để xác định năm sinh, năm chết và không cung cấp được trích lục khai tử cho các cụ có tên nêu trên” Do vậy, cần căn cứ vào lời khai thống nhất của các bên đương sự, xác định thời điểm mở thừa kế của cụ L6 vào năm 1964.

2.2. Về xác định di sản thừa kế và việc chia thừa kế:

Theo “Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất” do Uỷ ban hành chính tỉnh Vĩnh Ph cấp cho cụ Phạm Văn L6 ngày 20 tháng 10 năm 1955 thì cụ L6 được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu một số loại ruộng, đất trong đó có 12 thước đất ở và 1 sào đất ao có vị trí như sau:

- Vị trí 01 sào ao: Gp các thửa đất đứng tên chủ sử dụng là:T3, Tẩm, Chủ điền, Ô. Cảo.

Tại phiên tòa hôm nay, ông T2 và anh H đại diện cho bà Đ2 đều xác định 01 sào đất ao của cụ L6 nằm tại diện tích đất 436m2 thửa số 40, TBĐ số 33 (Bản đồ 299- 1986) thôn Đông Tây, xã V.

- Vị trí 12 thước đất ở: Có một cạnh giáp Đường cái, các cạnh còn lại giáp các thửa đất đứng tên chủ sử dụng là: L, Viện, Quát.

Theo xác nhận của UBND xã V tại Biên bản xác minh ngày 03/10/2022 thì vị trí diện tích 12 thước đất này nằm tại diện tích 608m2 thửa số 22(1), TBĐ số 33 gia đình ông Th đang quản lý, sử dụng và được cấp GCNQSD năm 2011. Điều này phù hợp với lời khai nhận của nguyên đơn ông T2 và anh H tại phiên tòa hôm nay.

2.2.1. Đối với diện tích đất ao 436m2 Xét thấy: Việc tranh chấp thửa đất ao 436m2 này đã xảy ra từ năm 2005 giữa cụ Th4 và bà Đ2 và cụ Th4 đã khởi kiện bà Đ2 ra Tòa án để đòi lại thửa đất ao này vì cụ Th4 cho rằng cụ được cụ L6 cho. Tại thời điểm giải quyết yêu cầu khởi kiện đòi đất của cụ Th4 năm 2005-2006, do cụ Th4 không cung cấp được các loại giấy tờ để xác định ao tranh chấp là của cụ Th4 theo quy định tại Điều 50 Luật Đất đai 2003 và trên đất không có công trình, vật kiến trúc nên Bản án dân sự phúc thẩm số 101/2006/DSPT ngày 11/5/2006 của Tòa án nhân dân thành phố H đã hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ yêu cầu tranh chấp đất ao giữa cụ Th4 và bà Đ2 vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Nay ông T2 khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ L6 đối với diện tích ao này và cung cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất cụ L6 được cấp năm 1955 trong đó có 01 sào ao có vị trí trùng với vị trí ao đang tranh chấp. Bị đơn là bà Đ2 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ thể hiện bố bà là cụ L được cụ L6 cho ao này. UBND xã V xác định việc ghi tên trên bản đồ 299 và bản đồ 354 là do cán bộ dẫn đạc tự ghi, không có ý nghĩa xác định tên người được ghi trong bản đồ là chủ sử dụng đất hợp pháp. Như vậy, có căn cứ xác định 01 sào ao (360m2) cụ L6 được cấp GCN năm 1955 vẫn là di sản thừa kế của cụ L6 chưa chia. So với số đo thực tế là 436 m2 có sự chênh lệch 76m2. Tại phiên tòa hôm nay, ông T2 cho rằng có sự chênh lệch này là do bờ ao trước đây bị lở. Anh H đại diện theo ủy quyền của bà Đ2 cũng nhất trí xác định ao này là di sản của cụ L6, đồng ý chia thừa kế di sản của cụ L6 nhưng chỉ đồng ý chia 360m2 đất theo GCNQSHRĐ 1955 cụ L6 được cấp, còn phần diện tích chênh lệch là do công sức tôn tạo, mở rộng của gia đình bà Đ2.

Xét thấy: Cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ sự tăng thêm diện tích 76m2 là do trong quá trình sử dụng gia đình bà Đ2 tôn tạo, cơi nới hay là vẫn là đất ao của cụ L6 để lại. Nếu có căn cứ cho rằng có việc cới nới của gia đình bà Đ2 thì cần đánh giá công sức thỏa đáng cho gia đình bà Đ2; Nếu là đất ao cũ của cụ L6 thì cũng cần trích công sức hợp lý cho gia đình bà Đ2 trong việc quản lý, duy trì, nộp thuế đất từ năm 2002 đến nay. Bản án sơ thẩm chỉ trích công sức san lấp đất ao cho gia đình bà Đ2 là 89.680.000đ mà chưa trích công sức cho gia đình bà Đ2 trong việc tôn tạo, duy trì, đóng thuế đất là chưa hợp lý, thiệt thòi cho gia đình bà Đ2.

Hơn nữa, cấp sơ thẩm không đưa bà Th4 và vợ con của ông S5 (ông S5 là con cụ V5 đã chết) tham gia tố tụng để lấy lời khai của những người này về vấn đề chia thừa kế của cụ L6, cụ V5 là thiếu sót.

2.2.3. Đối với diện tích đất 608 m2 thửa 22(1) TBĐ số 33:

Tất cả các bên đương sự, nhân chứng đều khai nhận, toàn bộ diện tích đất 1.130m2 thuộc thửa đất số 22, TBĐ số 33 (bản đồ năm 1996) có nguồn gốc của cụ L6.

Vị trí 12 thước đất ở cụ L6 được cấp GCNQSHRĐ năm 1955 giáp với phần đất của cụ L, như vậy DT đất 390m2 của cụ L thuộc thửa đất số 37 còn 12 thước đất ở của cụ L6 thuộc thửa đất số 36 (theo bản đồ 1986).

Trên DT 390m2 đất thuộc thửa 37 có nhà cấp bốn của cụ L mà sinh thời cụ L và cụ G ở. Năm 1992, anh Th là cháu nội cụ L (là con ông Th- con nuôi cụ L) đứng ra khởi kiện đề nghị chia thừa kế di sản của cụ L đối với nhà cấp bốn trên DT 390m2 đất thuộc thửa đất số 37. Bản án số 137/1992/DSPT ngày 16/7/1992 của Tòa án H đã xét xử vụ án chia thừa kế do anh Th là con trai xử chia cho cụ Th4 được sở hữu, sử dụng toàn bộ nhà và 390 m2 đất của cụ L trên cơ sở cụ Th4 phải thanh toán số tiền 2.000.000đ cho anh Th. Hiện nay, ranh giới DT 390m2 đất cụ Th4 được nhận của cụ L theo Bản án số 137/1992/DSPT chưa được xác định rõ và cụ Th4 chưa kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất này. Sau khi cụ Th4 chết, toàn bộ DT đất 390m2 đất này do ông Th là con cụ Th4 quản lý, sử dụng và hiện chưa ai trong gia đình cụ Th4 đứng ra xin cấp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng.

Năm 2011, ông Th làm đơn kê khai xin cấp GCNQSD đối với 608m2 đất phía giáp mặt đường cái (thuộc thửa 36, TBĐ số 33- Bản đồ 299), trong phần đất này có cả phần đất 12 thước cụ L6 dược cấp GCNQSHRĐ năm 1955. Tại đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Th và tại “Biên bản xét duyệt hồ sơ cấp GCNQSDĐ” của Hội đồng xét duyệt cấp GCNQSDĐ xã V đều ghi nguồn gốc DT đất 608 m2 thửa 22 (1) ông Th xin cấp giấy chứng nhận là “của cha ông để lại”. Ông Th cho rằng diện tích đất 608 m2 này cụ Th4 là bố ông được cụ L6 chia cho nhưng không đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh. UBND huyện Đ khi xem xét hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 608 m2 đất thửa 22 (1) cho ông Th đã không xác minh làm rõ nguồn gốc đất, không yêu cầu ông Th xuất trình tài liệu, chứng cứ xác định ông Th được quyền sử dụng đất này, không lấy ý kiến của các thừa kế của cụ L6 mà đã cấp GCNQSDĐ cho ông Th là không đúng pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thừa kế của cụ L6. Do đó, yêu cầu phản tố của bà Đ2 về việc Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Th đối với 608m2 thửa 22 (1) và chia thừa kế theo pháp luật di sản của cụ L6 tại thửa đất này cho các thừa kế của cụ L6 là có căn cứ. Cấp sơ thẩm chỉ bác yêu cầu phản tố của bà Đ2 là chưa chính xác.

Tuy nhiên, khi giải quyết việc chia thừa kế di sản của cụ L6, cụ Kh, cụ L7 thì cần phải đưa tất cả các con cụ V5 tham gia tố tụng. Bản án sơ thẩm không đưa bà Th4 là con gái cụ V5 và vợ con ông S5 (ông S5 là con trai cụ V5 đã chết) tham gia tố tụng là thiếu sót, tại phiên tòa phúc thẩm không khắc phục được.

2.3. Về yêu cầu của ông T2 đối với diện tích đất 144m2 liền kề diện tích đất ao 436 m2:

Nhận thấy: Diện tích đất 144m2 tranh chấp theo bản đồ 299 năm 1986 thuộc thửa đất số 39, TBĐ số 33, đứng tên chủ sử dụng là cụ T3 (Cụ T3 còn có tên gọi là Chín), theo bản đồ năm 1996 thì diện tích đất này được gộp chung với diện tích ao 436 m2 của thửa đất số 40 của cụ L6 thành thửa đất số 25, TBĐ số 33 với tổng diện tích 580m2.

Năm 2005, bà Đ2 san lấp ao và sử dụng toàn bộ diện tích 580m2 đất thuộc thửa 25 này thì xảy ra tranh chấp với cụ Th4 và cụ Th4 đã khởi kiện bà Đ2 ra Tòa án để đòi bà Đ2 trả lại diện tích 580m2 đất này vì cụ Th4 cho rằng cụ được cụ L6 diện tích đất này. Phía bà Đ2 thì cho rằng 580 m2 đất thửa 25 là của bố bà là cụ L để lại cho bà. Do diện tích đất tranh chấp không có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 và trên đất không có tài sản, công trình xây dựng gắn liền nên Bản án dân sự phúc thẩm số 101/2006/DSPT ngày 11/5/2006 của Tòa án nhân dân thành phố H đã đình chỉ việc giải quyết vụ án do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong phần nhận định của Bản án dân sự phúc thẩm số 101/2006/DSPT ngày 11/5/2006 của Tòa án nhân dân thành phố H có nêu: Hai bên đương sự và UBND xã V đều xác nhận diện tích ao từ 436 m2 thành 580 m2 là do cộng 144 m2 tại thửa đất liền kề”; “diện tích 144m2 các bên không có tranh chấp và hiện ông Th4 đang quản lý, sử dụng”.

Bản án sơ thẩm số 223/2021/DSST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ căn cứ vào nhận định nêu trên để xác định 144 m2 đất tranh chấp là của cụ Th4 và chấp nhận yêu cầu của ông T2 đòi bà Đ2 144m2 đất này là không có căn cứ. Bởi lẽ nhận định nêu trên của Bản án dân sự phúc thẩm số 101/2006/DSPT ngày 11/5/2006 không có ý nghĩa công nhận quyền sử dụng 144 m2 đất tranh chấp là của cụ Th4. Tại phiên tòa hôm nay, tất cả các bên đương sự đều khẳng định thời điểm cụ Th4 khởi kiện đòi 580 m2 đất ao đối với bà Đ2 thì bà Đ2 đang là người sử dụng toàn bộ diện tích 580 m2 đất trong đó có 144 m2 đất thuộc thửa đất liền kề (thửa số 39 của cụ T3) và đều cho rằng nhận định của Bản án dân sự phúc thẩm số 101/2006/DSPT ngày 11/5/2006 cho rằng cụ Th4 đang quản lý, sử dụng 144m2 đất của thửa đất liền kề là không chính xác bởi lẽ nếu đang do cụ Th4 quản lý, sử dụng thì sẽ không có việc cụ Th4 phải đi kiện đòi bà Đ2 trả lại toàn bộ 580m2đất nữa? Do 144 m2 đất tranh chấp mà ông T2 kiện đòi đối với bà Đ2 có nguồn gốc thuộc thửa đất số 39 (bản đồ 299- 1986) đứng tên cụ T3 (tức Chín), ông T2 là nguyên đơn nhưng không xuất trình tài liệu, chứng cứ nào thể hiện có việc chuyển giao quyền sử dụng diện tích đất này từ cụ T3 sang cụ Th4. Việc cụ Th4 có thời gian sử dụng 144m2 đất để chất rơm, rạ, làm chuồng trâu, bò không phải là căn cứ để xác định quyền sử dụng của cụ Th4 đối với diện tích đất này.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 03/10/2022, các các con cụ T3 là các ông, bà: Phạm Văn Hùng, Phạm Văn Mãn, Phạm Văn Bạo, Phạm Thị Mật đều khẳng định sinh thời cụ T3 đã cho cụ L là bố bà Đ2 sử dụng diện tích đất giáp ao của cụ L6 (tức 144m2 đang tranh chấp), phần đất còn lại của thửa 39 gia đình cụ T3 đã xây tường bao, nay các ông, bà không tranh chấp gì với việc bà Đ2 về việc sử dụng diện tích đất này. Như vậy, yêu cầu khởi kiện đòi 144 m2 đất của ông T2 đối với bà Đ2 là không có cơ sở chấp nhận.

Tuy nhiên, cấp sơ thẩm không đưa các con cụ T3 tham gia tố tụng để xác định rõ việc cụ T3 đã cho cụ L để từ đó xác nhận cho bà Đ2 có quyền sử dụng 144 m2 đất này là thiếu sót. Do đó, vấn đề tranh chấp quyền sử dụng 144 m2 đất cần được giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm để tất cả các thừa kế của cụ T3 có quyền tham gia tố tụng trong vụ án.

Do cấp sơ thẩm chưa giải quyết việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện Đ cấp cho ông Th năm 2011 đối với diện tích đất 608m2thửa 22 (1); đưa thiếu người tham gia tố tụng và xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ không đầy đủ mà tại cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 223/2021/DSST ngày 13/12/2021 của Tòa án huyện Đ, giữ lại hồ sơ vụ án tại Tòa án H để giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị hủy nên bà Đ2 là người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Bởi các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 34 Bộ luật tố tụng Dân sự.

1. Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thâm số 223/2021/DSST ngày 13/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ.

2. Giữ hồ sơ vụ án tại Tòa án nhân dân thành phố H để giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm theo thủ tục chung.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Đ2 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật để thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thừa kế số 427/2022/DS-PT

Số hiệu:427/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;