TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ G, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 76/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 255/2022/TLST–HNGĐ, ngày 29 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp ly hôn và nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
75/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc Đ, sinh năm 1996; địa chỉ cư trú: ấp K, xã T, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt) - Bị đơn: Ông Trần Minh Q, sinh năm 1990; địa chỉ cư trú: ấp 1, xã T, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện ngày 27 tháng 6 năm 2022 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn trình bày:
+ Quan hệ hôn nhân: Bà và ông Đ sống chung với nhau năm 2012 và có đăng ký kết hôn. Hai người đã ly thân từ năm 2016, với lý do: quá trình sống chung nhiều mâu thuẫn, ông Q chữi và xúc phạm đến bà nên bà đã bỏ đi về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Nay bà Đ yêu cầu ly hôn với ông Q.
+ Việc nuôi con: Bà và ông Q có 01 người con chung tên Trần Thùy T, sinh ngày 11 tháng 4 năm 2014. Hiện đang sống chung với bà, bà yêu cầu tiếp tục nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng.
+ Chia tài sản: không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn ông Trần Minh Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên không thể tiến hành lấy lời khai được.
- Kiểm sát viên phát biểu:
+ Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn không có mặt theo giấy triệu của Tòa án, vắng mặt tại phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải là không thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại các Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
+ Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Ngọc Đ xin ly hôn với ông Trần Minh Q.
+ Về quan hệ con: giao con chung cho bà Đ tiếp tục nuôi dưỡng và tạm miễn việc cấp dưỡng.
+ Chia tài sản: không có nên không đặt ra xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn vắng mặt nhưng có đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên việc xét xử vắng mặt của họ là phù hợp với quy định tại các Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Quan hệ hôn nhân: Do ông Q đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt và không thể tiến hành lấy lời khai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai của bà Đ để giải quyết theo quy định. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa bà Đ và ông Q là hôn nhân hợp pháp. Thông qua lời khai của bà Đ đã chứng minh được bà và ông Q ly thân từ năm 2016 đến nay, với những lý do mà bà đưa ra. Từ đó, cho thấy hôn nhân giữa họ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đây là căn cứ ly hôn theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu của bà Nguyễn Thị Ngọc Đ được ly hôn với ông Trần Minh Q.
[3] Việc nuôi con:
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.” - Cháu T đang sống với bà Đ và đang phát triển bình thường, đồng thời cháu có nguyện vọng tiếp tục sống chung với bà Đ nên việc giao cho bà Đ được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.
- Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con do mình không trực tiếp nuôi, mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.
- Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
- Về cấp dưỡng: bà Nguyễn Thị Ngọc Đ không yêu cầu (mặc dù đã được giải thích) nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[4] Chia tài sản: bà Nguyễn Thị Ngọc Đ không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G là phù hợp nên được Hội đồng xét xử ghi nhận. [6] Về án phí:
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000đ, khấu trừ số tiền đã dự nộp tạm ứng theo biên lai thu tiền số 0004136 ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G.
- Ông Trần Minh Q không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử :
1. Quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Ngọc Đ và ông Trần Minh Q.
2. Việc nuôi con:
- Giao cháu Trần Thùy T, sinh ngày 11 tháng 4 năm 2014 cho bà Nguyễn Thị Ngọc Đ được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
- Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con do mình không trực tiếp nuôi, mà không ai được cản trở. Trong trường hợp lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.
- Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
- Về cấp dưỡng: bà Nguyễn Thị Ngọc Đ không yêu cầu (mặc dù đã được giải thích) nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
3. Chia tài sản: bà Nguyễn Thị Ngọc Đ không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
4. Về án phí:
- Bà Nguyễn Thị Ngọc Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không có giá ngạch là 300.000đ, khấu trừ số tiền đã dự nộp tạm ứng theo biên lai thu tiền số 0004136 ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã G.
- Ông Trần Minh Q không phải chịu án phí.
5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 76/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 76/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về