Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 127/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 127/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2021 về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1991; Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Hồng T, sinh năm 1987; Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn X, xã Quế L, huyện Quế S, tỉnh Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/5/2021, bản tự khai, các phiên hòa giải và đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn - chị Nguyễn Thị Kim N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đỗ Hồng T tự nguyện đến với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, tỉnh Q vào năm 2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn vợ chồng không thể giải quyết được, anh T không chăm lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên cờ bạc, rượu chè. Chị và anh T hiện đang sống ly thân. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu giải quyết ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là Đỗ Hồng P, sinh ngày 23/10/2013. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng cháu P và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Theo bản tự khai và tại các phiên hòa giải, bị đơn anh Đỗ Hồng T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh thống nhất với phần trình bày của chị N về thời gian và điều kiện kết hôn. Trong quá trình chung sống vợ chồng cũng có xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cãi vả nhưng mâu thuẫn nhỏ nhặt, không đến mức độ trầm trọng. Nay chị N yêu cầu giải quyết ly hôn thì anh không đồng ý và mong muốn được hòa giải để đoàn tụ gia đình.

Về con chung: Anh và chị N có 01 con chung như chị N đã trình bày. Nếu trường hợp phải ly hôn, anh có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế S phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn không có mặt tại các phiên tòa là vi phạm quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và nuôi con của chị Nguyễn Thị Kim N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa, nguyên đơn - chị Nguyễn Thị Kim N có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn - anh Đỗ Hồng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự tại phiên tòa.

[2]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Nguyễn Thị Kim N có quan hệ hôn nhân hợp pháp với anh Đỗ Hồng T, địa chỉ: Thôn X, xã Quế L, huyện Quế S, tỉnh Q. Nay, chị N khởi kiện xin ly hôn với anh T và yêu cầu được nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế S, tỉnh Q theo khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B, huyện H, tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 17 ngày 28 tháng 3 năm 2011. Trong quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn; chị N cho rằng vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh T không chăm lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên cờ bạc, rượu chè. Anh T cho rằng vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng nhỏ nhặt, không đến mức độ trầm trọng, anh vẫn còn tình cảm với chị N và con còn nhỏ nên anh không đồng ý ly hôn và mong muốn Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần, anh T yêu cầu đoàn tụ gia đình nhưng anh không có biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn, hiện nay anh chị không còn chung sống và quan tâm nhau nữa. Tại các phiên tòa, anh T đều vắng mặt không có lý do trong khi chị N có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn cương quyết xin ly hôn. Điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị N và anh T có 01 con chung tên là Đỗ Hồng P, sinh ngày 23/10/2013. Khi ly hôn, chị N và anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Tại bản tự khai, cháu P có nguyện vọng muốn sống với mẹ sau khi ba mẹ ly hôn. Tại phiên tòa hôm nay, anh T vắng mặt, chị N xin xét xử vắng mặt và có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu P. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu nuôi con của chị N là phù hợp với nguyện vọng của cháu P nên cần chấp nhận giao cháu Đỗ Hồng P cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Về cấp dưỡng nuôi con, chị N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở phù hợp với Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

[5]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7]. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Thị Kim N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kim N về việc "Tranh chấp về ly hôn và nuôi con".

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim N và anh Đỗ Hồng T.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Hồng P, sinh ngày 23/10/2013 cho chị Nguyễn Thị Kim N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Đỗ Hồng T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Các bên đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị Nguyễn Thị Kim N phải chịu, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001820 ngày 05/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế S, tỉnh Q.

4. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 127/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:127/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;