TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 27/2022/DS-PT NGÀY 22/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LỐI ĐI QUA VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN BỊ XÂM PHẠM
Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 14/2022/TLPT-DS ngày 14 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp lối đi qua và yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 10/2022/DS-ST, ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 24/2022/QĐ-PT, ngày 26 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự :
1. Nguyên đơn: Ông Lý Văn Kh, sinh năm 1977.
Địa chỉ: Thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Hà Quang Tr, sinh năm 1962;
địa chỉ: Thôn Tháng 10, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang.
2. Bị đơn: Ông Ninh Quốc V, sinh năm 1978.
Nơi ĐKHKTT: Thôn Ng.S, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang; Chỗ ở: Thôn Tháng 10, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang.
3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Bà Trần Thị Nh, sinh năm 1979; Nơi ĐKHKTT: Thôn Ng.S, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang; Chỗ ở: Thôn Tháng 10, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang.
- Ông Đào Văn M, sinh năm 1982; ông Lý Văn H, sinh năm 1983; ông Hoàng Văn B, sinh năm 1978; Cùng địa chỉ: Thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang.
- Ông Hoàng Văm L, sinh năm 1960; ông Lý Văn Th, sinh năm 1971; ông Bàn Văn P, sinh năm 1969; ông Lý Văn K, sinh năm 1978; ông Lý Văn D, sinh năm 1973; Cùng địa chỉ: Thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang.
Người đại diện theo uỷ quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Lý Văn K; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn D: Là ông Hà Quang Tr, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn Tháng 10, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang. (Có mặt tại phiên tòa).
- Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn 5 Th.Nh, xã Y.P, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang.
- Ủy ban nhân dân xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang (Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Văn Đ, chức vụ: Chủ tịch; Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nông Anh H, chức vụ: Cán bộ địa chính).
Những người kháng cáo: Ông Lý Văn Kh, ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D.
Những người không kháng cáo: Ông Ninh Quốc V, bà Trần Thị Nh, ông Đào Văn M, ông Lý Văn H, ông Hoàng Văm L, bà Nguyễn Thị X, Uỷ ban nhân dân xã Y.L.
(Ông Lý Văn Kh, ông Hà Quang Tr, ông Ninh Quốc V có mặt, bà Trần Thị Nh, ông Nông Anh H có đơn xử vắng mặt).
(Ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D, ông Đào Văn M, ông Lý Văn H, ông Hoàng Văm L; bà Nguyễn Thị X vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lý Văn Kh trình bày: Do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên năm 2007 gia đình ông tr c tiếp khai phá được diện tích đất khoảng 15ha tại khu vực khe Bằm Bằm thuộc thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang và canh tác sử dụng ổn định, không có tranh chấp với bất cứ ai. Tháng 8/2014 ông t thuê máy cuốc của anh S (ông không biết họ tên) tại km 50, xã Y.P, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang mở đường đi từ dưới khe nước lên đến phần đất của gia đình ông (trong đó có mở qua phần đất của ông Lý Văn H với chiều dài khoảng 800m), tổng số giờ thuê máy cuốc là 113 giờ x 550.000 đồng/giờ cuốc = 62.151.000 đồng. Ông đã thanh toán tiền thuê máy cuốc cho anh S xong, các bên không còn bất cứ vướng mắc gì với nhau. Sau khi ông mở xong con đường đi thì ngày 26/8/2014 có 07 hộ dân có diện tích đất rừng liền kề với diện tích đất của gia đình ông đến hỏi cho cùng đi chung con đường và đóng góp tiền cho ông để chi trả thuê máy cuốc đường. Cụ thể các hộ gia đình gồm:
1. Ông Hoàng Văm L, địa chỉ: Thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang, đóng góp số tiền 7.800.000 đồng.
2. Ông Lý Văn Th, sinh năm 1971, địa chỉ: Thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang, đóng góp số tiền 10.000.000 đồng.
3. Ông Bàn Văn P, sinh năm 1970, địa chỉ: Thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang, đóng góp số tiền 8.500.000 đồng.
4. Ông Lý Văn K, sinh năm 1978, địa chỉ: Thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang, đóng góp số tiền 8.500.000 đồng.
5. Ông Lý Văn D, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang, đóng góp số tiền 8.300.000 đồng.
6. Bà Nguyễn Thị X, địa chỉ: Thôn 5 Th.Nh, xã Y.P, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang, đóng góp số tiền 10.000.000 đồng.
7. Ông Hoàng Văn B, sinh năm 1978, địa chỉ: Thôn Q.T, xã Yên Lâm, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang, đóng góp số tiền 3.000.000 đồng.
Khi góp tiền các bên không lập giấy tờ giao nhận tiền, ông chỉ lập 01 bản viết tay (có nội dung: Biên bản đóng góp tiền đường ngày 26/8/2014) để ông t theo dõi số tiền từng người nộp cho ông. Sau khi các hộ dân trên góp tiền cho ông và cùng sử dụng đi chung con đường, đến năm 2018 thì xảy ra tranh chấp với ông Ninh Quốc V. Tháng 12/2018 ông V cho máy múc phá ta luy m, ta luy dương của con đường và trồng cây keo trên phần đất đường đi ông đã cuốc trước đó. Vì không có đường đi vào diện tích đất phía bên trong nên ông Kh không thể chăm sóc số cây cam gia đình đã trồng khoảng 800 cây, dẫn đến 500 cây cam đã bị chết và 300 cây cam đã bị bệnh, tổng trị giá cây cam bị thiệt hại là 57.000.000 đồng. Đối với diện tích đất đường đi các bên đang tranh chấp nêu trên, ông Kh xác định hiện nay chưa làm thủ tục kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, cũng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào.
Đối với kết quả đo vẽ, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ông hoàn toàn nhất trí và không có bất cứ ý kiến gì. Đối với số tiền chi phí tố tụng là 15.219.886 đồng, ông đã nộp toàn bộ số tiền trên nên ông đề nghị HĐXX buộc ông Ninh Quốc V có trách nhiệm phải hoàn trả lại toàn bộ số tiền trên cho ông.
Tại phiên toà, ông Lý Văn Kh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết các nội dung cụ thể sau:
- Thứ nhất: Yêu cầu ông Ninh Quốc V có trách nhiệm phải khôi phục và trả lại cho ông Lý Văn Kh diện tích đất trước đ y ông đã thuê máy cuốc san ủi để làm đường đi theo như Biên bản thẩm định và định giá tài sản thì diện tích đất là 735,6m2 đất rừng sản xuất thuộc lô số 41, khoảnh 153 tại khe Bằm Bằm thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang để ông và các hộ dân cùng sử dụng làm đường đi chung.
- Thứ hai: Yêu cầu ông Ninh Quốc V có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Lý Văn Kh đối với giá trị toàn bộ số cây cam (gồm 500 cây cam bị chết và 300 cây cam bị bệnh) do không có đường đi lại nên ông Kh không thể chăm sóc cây cam được. Tổng cộng số tiền ông Kh yêu cầu ông V phải bồi thường là 57.000.000 đồng (Năm mươi bẩy triệu đồng).
* Tại Bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Ninh Quốc V trình bày: Tháng 4/2018 ông nhận chuyển nhượng diện tích đất khoảng 3 ha tại khu vực khe Bằm Bằm thuộc thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang của ông Đào Văn M, địa chỉ thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y với trị giá là 110.000.000 đồng. Khi nhận chuyển nhượng đất các bên viết Giấy chuyển nhượng, có chữ ký của hai bên và xác nhận của chính quyền địa phương nhưng hiện nay ông vẫn chưa hoàn thiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật. Ông xác định đã trả đầy đủ số tiền nhận chuyển nhượng đất cho ông M, ông M đã giao đủ diện tích đất cho ông quản lý sử dụng từ đó cho đến nay. Khi nhận chuyển nhượng diện tích đất của ông Đào Văn M đã có một con đường đi lại trên phần diện tích đất này, ông M nói với ông là ông được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất của con đường đó. Tuy nhiên sau khi nhận chuyển nhượng đất, ông Lý Văn Kh đã ngăn cản không cho ông V sử dụng đi lại con đường này, ông Kh nói con đường này do ông Kh bỏ tiền ra thuê máy cuốc mở đường nên yêu cầu ông V phải đóng góp số tiền 70.000.000 đồng cho ông Kh thì mới được quyền đi lại con đường. Ông V không nhất trí nên đã tự mở một con đường khác ở ch n lô để đi lại và ông V cũng không cho ông Kh đi lại con đường trên diện tích đất của ông được quyền quản lý, sử dụng nên đã xảy ra tranh chấp với ông Kh. Đối với diện tích đất đường đi các bên đang tranh chấp nêu trên, ông V xác định chưa làm thủ tục kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào.
Đối với kết quả đo vẽ, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ông V hoàn toàn nhất trí. Đối với số tiền chi phí tố tụng 15.219.886 đồng mà ông Kh yêu cầu hoàn trả lại, ông V không nhất trí.
Tại phiên toà, ông V không nhất trí yêu cầu khởi kiện của ông Lý Văn Kh. Lý do vì toàn bộ diện tích đất mà ông Lý Văn Kh tự ý mở đường đi mà hiện nay đang tranh chấp là đất của ông, không phải đường đi chung của ông Kh và các hộ dân khác, khi ông nhận chuyển nhượng diện tích đất của ông Đào Văn M thì ông M đã nói ông được quyền quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích đất con đường này. Đồng thời ông V không gây thiệt hại gì về tài sản (500 cây cam bị chết và 300 cây cam bị bệnh) theo yêu cầu của ông Kh nên ông không nhất trí bồi thường bất cứ số tiền nào cho ông Kh.
* Tại Biên bản lấy lời khai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Nh trình bày: Bà là vợ của ông Ninh Quốc V, bà đã uỷ quyền toàn bộ cho ông Ninh Quốc V tham gia tố tụng tại Toà án. Bà nhất trí với toàn bộ nội dung trình bày của chồng bà ông Ninh Quốc V. Bà không trình bày bổ sung thêm nội dung gì khác. Bà không nhất trí với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lý Văn Kh về việcâyêu cầu gia đình bà trả lại diện tích đất con đường đang tranh chấp để làm đường đi chung cho ông Kh và các hộ d n khác; đồng thời bà cũng không nhất trí bồi thường bất cứ số tiền nào liên quan đến bồi thường thiệt hại tài sản (500 cây cam bị chết và 300 cây cam bị bệnh) cho ông Kh.
* Tại Biên bản lấy lời khai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lý Văn H trình bày: Ông với ông Lý Văn Kh, ông Ninh Quốc V không có quan hệ anh em họ hàng gì. Từ trước đến nay, các bên không có mâu thuẫn hay nợ nần tài sản gì với nhau. Về nguồn gốc diện tích đất ông chuyển nhượng cho ông Đào Văn M: Năm 2002 bố mẹ ông là ông Hoàng Văn N (đã chết) và bà Lý Thị A, sinh năm 1940 tặng cho ông một diện tích đất khoảng 2,5 ha tại khu vực khe Bằm Bằm thuộc thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang. Việc bố mẹ ông tặng cho ông diện tích đất này chỉ nói bằng miệng, không lập hợp đồng tặng cho theo quy định pháp luật. Từ năm 2002 khi được tặng cho diện tích đất, ông là người tr c tiếp quản lý, sử dụng diện tích đất ổn định, không tranh chấp với bất cứ ai. Năm 2014 ông Lý Văn Kh trao đổi với ông về việc muốn mở một con đường đi qua phần đất của gia đình ông đang quản lý, sử dụng để lấy đường đi vào phần đất phía bên trong của gia đình ông Kh và một số hộ d n khác đang canh tác sản xuất. Ông nhất trí và tr c tiếp phát một đoạn đường đi theo ven bờ suối giáp ranh đất của ông, ông nói với ông Kh là cho máy cuốc đường theo đúng diện tích đất ông đã phát dọn trước đó nhưng ông Kh không làm đúng theo thỏa thuận, ông Kh tự ý cho máy cuốc đường đi cắt ngang (chia đôi) diện tích đất đồi của gia đình ông để làm đường đi. Việc ông Kh thuê máy cuốc đường ông không có mặt tại đó nên không biết, khi biết ông Kh cuốc đường cắt ngang diện tích đất nhà ông thì ông đã nói với ông Kh là không nhất trí cho ông Kh cuốc đường đi theo vị trí này, nhưng vì khi đó gia đình ông đang cần tiền thuê người cuốc ao, ông Kh nói sẽ vay tiền cho ông thuê người cuốc ao nên ông đã nhất trí để ông Kh tiếp tục cuốc con đường đi qua giữa đồi của nhà ông. Ông Kh thuê máy cuốc đường hết bao nhiêu tiền ông không biết, ông không phải đóng góp tiền để cuốc đường đi. Ông xác định khi ông Kh mở đường ông chỉ cho ông Kh mượn đất để làm đường đi qua, không phải chuyển nhượng hay góp đất cho ông Kh để làm đường đi. Khi đó diện tích đất con đường này vẫn thuộc quyền quản lý và sử dụng của ông, không phải của ông Kh và các hộ dân khác.
Ngày 25/6/2017 ông đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất khoảng 2,5ha nêu trên cho ông Đào Văn M với giá trị 25.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng đất, các bên viết Giấy chuyển nhượng đất có chữ ký của các bên và chính quyền địa phương chứng kiến xác nhận. Ông xác định ông M đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất cho ông và ông cũng đã giao diện tích đất cho ông M quản lý sử dụng, các bên không còn bất cứ vướng mắc gì với nhau. Diện tích đất ông chuyển nhượng cho ông M khi đó chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi chuyển nhượng diện tích đất cho ông M thì trên đất đã có 01 con đường đi ngang qua diện tích đất của ông, do ông Kh đã thuê máy cuốc mở đường từ trước. Ông chuyển nhượng đất cho ông M là chuyển nhượng cả phần diện tích đất phía trên, phía dưới và cả diện tích đất con đường đi (do ông Kh đã cuốc) cho ông M. Vì các bên thỏa thuận ông M nhận chuyển nhượng diện tích đất của ông thì được sử dụng cả diện tích đất con đường đi này. Hiện nay ông xác định đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất bao gồm cả phần đất phía trên, phía dưới và cả diện tích đất đường đi cho ông Đào Văn M, sau đó ông M đã chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích đất này cho ông Ninh Quốc V như thế nào thì ông không biết. Ông M và ông V có toàn quyền quản lý, sử dụng diện tích đất này, ông không còn quyền sử dụng và không liên quan đến diện tích đất này nữa. Về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Lý Văn Kh với ông Ninh Quốc V thì ông không có ý kiến gì và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
* Tại Bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đào Văn M trình bày: Ngày 25/6/2017 ông nhận chuyển nhượng diện tích đất khoảng 2,5ha tại khe Bằm Bằm thuộc thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang của ông Lý Văn H với giá trị 25.000.000 đồng. Khi nhận chuyển nhượng, các bên viết Giấy chuyển nhượng đất có chữ ký của các bên và chính quyền địa phương chứng kiến xác nhận. Ông xác định đã trả tiền chuyển nhượng đất xong cho ông H và ông H đã giao diện tích đất cho ông quản lý sử dụng. Sau khi nhận chuyển nhượng diện tích đất, ông sử dụng ổn định thường xuyên, không có tranh chấp với bất cứ ai. Diện tích đất ông nhận chuyển nhượng của ông Lý Văn H chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi nhận chuyển nhượng diện tích đất thì trên đất đã có một con đường đi lại ngang qua diện tích đất, ông H nói là đường do ông Lý Văn Kh thuê máy cuốc mở, ông H nói rõ là ông M được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất của con đường đi qua diện tích đất. Ông nhận chuyển nhượng diện tích đất của ông H là nhận chuyển nhượng cả phần diện tích đất phía trên, phía dưới và cả phần diện tích đất có con đường đi do ông Kh đã mở từ trước đó.
Ngày 07/4/2018 ông chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích đất đã nhận chuyển nhượng nêu trên của ông H cho ông Ninh Quốc V với trị giá 110.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng đất, các bên viết Giấy chuyển nhượng đất có chữ ký của các bên và chính quyền địa phương chứng kiến xác nhận. Ông xác định ông V đã trả tiền chuyển nhượng đất xong cho ông, ông cũng đã giao diện tích đất cho ông V quản lý sử dụng từ đó cho đến nay, các bên không còn bất cứ vướng mắc gì với nhau. Khi chuyển nhượng diện tích đất cho ông V, ông nói rõ là ông V được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất của con đường đi qua diện tích đất. Sau đó ông V và ông Kh xảy ra tranh chấp với nhau về con đường đi, nội dung cụ thể như thế nào thì ông không biết. Về việc giải quyết tranh chấp giữa các bên, ông không có ý kiến gì vì toàn bộ diện tích đất trên (trong đó có diện tích đất đường đi đang có tranh chấp) ông đã giao cho ông V được quyền quản lý, sử dụng. Ông đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.
* Tại Biên bản lấy lời khai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn B trình bày: Ông biết nguồn gốc diện tích đất con đường đang tranh chấp giữa ông Lý Văn Kh và ông Ninh Quốc V trước đ y là đất của ông Lý Văn H, địa chỉ: Thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang, sau đó ông H đã chuyển nhượng diện tích đất cho người khác, việc chuyển nhượng đất cụ thể như thế nào ông không biết. Ông chỉ biết khoảng năm 2014 khi ông Kh mở đường đi từ đường liên thôn lên đồi, do gia đình ông có phần diện tích đất ở phía bên trong con đường đi vào nên ông thoả thuận với ông Kh về việc góp số tiền 4.000.000 đồng tiền san ủi đường đi với ông Kh để gia đình ông được đi chung con đường này. Khi góp tiền làm đường với ông Kh không lập văn bản giao tiền mà ông chỉ đưa tiền cho ông Kh. Đến năm 2018 khi con đường đi này bị hỏng thì ông mới biết ông Kh và ông Ninh Quốc V xảy ra tranh chấp con đường với nhau. Ông mong Toà án giải quyết dứt điểm theo quy định pháp luật để gia đình ông cũng có đường đi lại như trước đ y.
* Tại Bản tự khai, Biên bản lấy lời khai bổ sung người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văm L trình bày:
Năm 2014 ông biết việc ông Lý Văn Kh thuê máy cuốc của anh S nhà ở km 47 xã Y.P, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang san ủi con đường đi đang có tranh chấp giữa ông Lý Văn Kh với ông Ninh Quốc V như hiện nay. Ông không xác định được trị giá con đường ông Kh đã thuê anh S san ủi để mở đường là bao nhiêu vì ông không tr c tiếp tham gia. Ông biết ông Kh thuê máy cuốc để san ủi đất trong thời gian khoảng 10 ngày, diện tích con đường có tổng chiều dài khoảng 2km, chiều rộng trung bình khoảng 3,5m; điểm bắt đầu từ khe Bằm Bằm (giáp đất của ông Hoàng Văn B) đến điểm cuối giáp với diện tích đất của gia đình ông. Trước khi ông Kh thuê máy múc san ủi con đường thì ông Kh có gặp ông nói chuyện trao đổi về việc cùng nhau góp tiền để thuê máy cuốc san ủi con đường đi vào diện tích đất phía bên trong, thuận tiện cho các hộ dân canh tác sản xuất. Ông thấy ông Kh trao đổi công việc hợp lý nên ngay sau khi máy cuốc san ủi con đường xong, ông và 06 hộ dân khác gồm ông Lý Văn Th, ông Bàn Văn P, ông Lý Văn K, ông Lý Văn D, bà Nguyễn Thị X, ông Hoàng Văn B cùng nhau đóng góp tiền cho ông Kh để chi trả một phần chi phí ông Kh đã thuê máy múc mở đường. Ngày 10/11/2015 tại gia đình ông, ông tr c tiếp đưa cho anh Khang số tiền 7.800.000 đồng là số tiền ông chi trả một phần chi phí cho ông Kh đã thuê máy cuốc mở đường để ông được đi lại trên con đường ông Kh đã mở đường. Khi ông đưa tiền, con trai ông là anh Hoàng Văn Q tr c tiếp viết “Giấy mở đường khai thác” có chữ ký xác nhận nội dung và nhận tiền của ông Lý Văn Kh. Từ khi đóng tiền chi phí mở đường cho ông Kh, gia đình ông có diện tích đất vườn đồi phía bên trong con đường đi này vẫn sử dụng làm con đường đi lại canh tác, sản xuất và không xảy ra tranh chấp gì. Sau này ông biết con đường ông Kh thuê máy cuốc san ủi có tranh chấp với ông Ninh Quốc V, việc tranh chấp giữa ông Kh với ông V cụ thể như thế nào ông không biết. Nay ông xác định đã đóng góp tổng số tiền là 7.800.000 đồng để chi trả cho ông Kh đã mở đường. Việc tranh chấp diện tích đất giữa ông Kh với ông V thì ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
* Tại Bản tự khai, Biên bản lấy lời khai bổ sung, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lý Văn Th, ông Bàn Văn P, ông Lý Văn K, ông Lý Văn D và bà Nguyễn Thị X cùng trình bày: Năm 2014 các ông bà biết việc ông Lý Văn Kh thuê máy cuốc của anh S ở km 47 xã Y.P, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang tiến hành san ủi con đường đi đang có tranh chấp giữa ông Lý Văn Kh với ông Ninh Quốc V như hiện nay. Các ông bà không biết việc ông Kh thuê anh S san ủi để mở đường hết tổng cộng là bao nhiêu tiền vì không tr c tiếp tham gia. Con đường có tổng chiều dài khoảng 2km, chiều rộng trung bình khoảng 3,5m; điểm bắt đầu từ khe Bằm Bằm (giáp đất của ông Hoàng Văn B) đến điểm cuối giáp với diện tích đất của gia đình ông Hoàng Văm M.
Sau khi ông Kh làm xong con đường, các ông bà và ông Kh có trao đổi miệng về việc góp tiền để trả tiền thuê máy cuốc san ủi con đường đi vào diện tích đất phía bên trong, vì gia đình các ông bà cũng có phần diện tích đất canh tác sản xuất ở phía bên trong con đường. Ngày 26/8/2014 tại gia đình ông Lý Văn Kh, ông Kh tr c tiếp nhận của ông Lý Văn K số tiền 8.500.000 đồng; nhận của ông Bàn Văn P số tiền 8.500.000 đồng; nhận của ông Lý Văn Th số tiền 10.000.000 đồng; nhận của ông Lý Văn D số tiền 8.300.000 đồng; nhận của bà Nguyễn Thị X số tiền 10.000.000 đồng và nhận của ông Hoàng Văn B số tiền 3.000.000 đồng. Đ y là số tiền các ông bà chi trả cho ông Kh đã thuê máy cuốc mở đường đi lại trên con đường này. Khi các ông bà đưa tiền cho ông Kh, ông Kh không viết giấy tờ riêng cho các ông bà mà chỉ viết chung vào một giấy ghi nội dung họ tên từng người đóng tiền, số tiền mỗi người đóng góp và cho ký nhận. Giấy tờ này chỉ lập thành 01 bản do ông Kh quản lý. Từ khi đóng tiền chi phí mở đường cho ông Kh, gia đình các ông bà vẫn sử dụng làm con đường này đi lại canh tác, sản xuất và không xảy ra tranh chấp gì. Sau này các ông bà được biết con đường ông Kh thuê máy cuốc san ủi có tranh chấp với ông Ninh Quốc V. Việc tranh chấp diện tích đấtự mở con đường giữa ông Kh với ông V thì các ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã Y.L, huyện H.Y do ông Nông Anh H - Cán bộ địa chính xã là người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND xã trình bày: Con đường đang có tranh chấp giữa ông Kh và ông V là con đường t phát, tự mở, không phải là đường đi chung của ông Kh và các hộ dân, con đường đang tranh chấp không được thể hiện tại bản đồ giải thửa 299 xã Y.L, huyện H.Y; chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào; đồng thời UBND xã Y.L, huyện H.Y chưa có văn bản nào quy hoạch mở con đường đi cho các hộ dân qua diện tích đất nêu trên. Ông Hiếu đề nghị HĐXX xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, về tài liệu chứng cứ các đương sự cung cấp cho Tòa án đúng như đã công bố tại Biên bản về việc kiểm tra, giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ tại Toà án ngày 13/5/2021. Tại phiên toà, các đương sự cùng xác định không xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ gì mới khác.
Toà án tiến hành xác minh tại thôn Q.T, xã Y.L và tại UBND xã Y.L, huyện H.Y được cung cấp như sau: Về nguồn gốc diện tích đất đang tranh chấp giữa ông Lý Văn Kh và ông Ninh Quốc V: Diện tích đất này năm 2002 ông Lý Văn H được bố mẹ đẻ tặng cho quản lý sử dụng. Năm 2014 ông Lý Văn Kh thuê máy cuốc mở một con đường đi qua giữa diện tích đất đồi của ông H. Ngày 25/6/2017 ông Lý Văn H chuyển nhượng diện tích đất này cho ông Đào Văn M với giá 25.000.000 đồng. Ngày 07/4/2018 ông Đào Văn M chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất đã nhận chuyển nhượng của ông H cho ông Ninh Quốc V với trị giá 110.000.000 đồng. Việc ông Kh cuốc đất làm đường đi qua phần đất của ông H và việc các bên chuyển nhượng đất cho nhau không báo cáo thông qua chính quyền địa phương nên thôn và xã cũng chưa hoàn thiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật nên UBND xã Y.L không nắm được thông tin. Chỉ đến khi xảy ra tranh chấp về con đường giữa ông Kh với ông V và đề nghị UBND xã giải quyết thì địa phương mới biết và xác định được diện tích đất đang tranh chấp là đất rừng sản xuất thuộc lô số 41, khoảnh 153 tại khe Bằm Bằm thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi các bên xảy ra tranh chấp, chính quyền địa phương đã nhiều lần tiến hành hoà giải nhưng không thành. Quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Toà án tiến hành đo vẽ, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản các bên đang tranh chấp. Hội đồng định giá tài sản căn cứ vào: Quyết định số 40/2019/QĐ- UBND ngày 20/01/2019 của UBND tỉnh Tuyên Quang ban hành quy định phân loại đường phố, phân khu vực, phân vị trí đất và Bảng giá đất 05 năm (2020- 2024) trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang; Quyết định số 01/2020/QĐ-UBND ngày 15/01/2020 của UBND tỉnh Tuyên Quang về việc quy định hệ số điều chỉnh giá đất trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang; Quyết định số 05/2017/QĐ-UBND ngày 25/4/2017 của UBND tỉnh Tuyên Quang ban hành đơn giá bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị Nhà nước thu hồi trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
Kết quả định giá tài sản cụ thể như sau:
- Về cây trồng trên diện tích đất đang tranh chấp: Cây keo trồng mới (dưới 01 năm), số lượng 22 cây x 12.000 đồng/cây = 264.000 đồng.
- Về diện tích đất: Diện tích đất đang tranh chấp giữa nguyên đơn ông Lý Văn Kh với bị đơn ông Ninh Quốc V có tổng diện tích là 735,6m2 đất rừng sản xuất thuộc lô số 41, khoảnh 153 tại khe Bằm Bằm thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang (thuộc khu vực 4, vị trí 3).
Trị giá: 735,6m2 x 9.000 đồng/m2 = 6.620.400 đồng.
- Về giá trị tài sản cây trồng bị thiệt hại: Khi Hội đồng thẩm định tại chỗ đi kiểm đếm số lượng cây trồng (cây cam) bị thiệt hại do không có đường đi thì hiện tại trên diện tích đất (02 vườn cây cam) ông Lý Văn Kh đang quản lý, sử dụng tại khe Bằm Bằm thuộc thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang không có cây trồng bị thiệt hại (không có số lượng cây cam bị chết và cây cam bị bệnh) như ông Kh yêu cầu khởi kiện bồi thường nên Hội đồng thẩm định tại chỗ và Hội đồng định giá tài sản không có căn cứ để thẩm định tại chỗ và định giá tài sản cây trồng bị thiệt hại theo yêu cầu của ông Lý Văn Kh.
Vụ án trên đã được Tòa án nhân dân huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang thụ lý, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải nhưng không thành và đã đưa vụ án ra xét xử. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2022/DS-ST, ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang quyết định: Căn cứ Khoản 6 và khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 157, 165, 227, 228, 235, 266, 267, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự ; Các Điều 585, 589 Bộ luật dân sự ; Các Điều 6, 12, 23, 135, 166 và Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lý Văn Kh về việc “Kiện tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” đối với bị đơn ông Ninh Quốc V.
2. Tạm giao cho ông Ninh Quốc V được quyền quản lý, sử dụng đối với diện tích đất là 735,6m2 đất rừng sản xuất thuộc lô số 41, khoảnh 153 tại khe Bằm Bằm thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang. Diện tích đất trên được giới hạn bởi các điểm nối liền liên tục là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 1 (Có sơ đồ kèm theo bản án).
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo bản án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 07/3/2022, Toà án nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D đơn ghi ngày 04/3/2022 các đơn kháng cáo có cùng nội dung kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2022/DS-ST ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện H.Y. Vì Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử vi phạm đạo đức xã hội. Gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, quyền lợi của chúng tôi không được pháp luật bảo vệ. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xem xét, xét xử lại để đảm bảo quyền, lợi ích của chúng tôi.
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn ông Lý Văn Kh và người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn là ông Hà Quang Tr đề nghị giữ nguyên đơn kháng cáo và rút một phần kháng cáo đối với phần bồi thường thiệt hại về tài sản.
Người đại diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D là ông Hà Quang Tr đề nghị giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên toà:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của của Bộ luật tố tụng dân sự . Các đương sự chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự . Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo; ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D hợp lệ, trong hạn luật định. Nội dung kháng cáo nằm trong nội dung bản án sơ thẩm.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự , không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 10/2022/DS-ST, ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang.
Đề nghị Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với việc rút một phần yêu cầu kháng cáo của Nguyên đơn về việc đề nghị bồi thường thiệt hại 500 cây cam bị chết và 300 cây cam bị bệnh, tổng trị giá cây cam bị thiệt hại 57.000.000 đồng.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự kháng cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về trình tự, thủ tục kháng cáo:
Ngày 07/3/2022, nguyên đơn ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D; kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 10/2022/DS-ST, ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang. Việc kháng cáo được thực hiện trong thời hạn luật định, nội dung kháng cáo và quyền kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật, nên các đơn kháng cáo nêu trên được chấp nhận là hợp lệ.
[2]. Về xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự: Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Năm 2007 gia đình ông Lý Văn Kh tr c tiếp khai phá được diện tích đất khoảng 15ha tại khu vực khe Bằm Bằm thuộc thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang và canh tác sử dụng ổn định. Tháng 8/2014 ông Kh thuê máy cuốc mở đường đi từ dưới khe nước lên đến phần đất của gia đình ông (trong đó có mở đường qua phần đất của ông Lý Văn H với chiều dài khoảng 800m). Sau khi ông mở xong đường đi đến ngày 26/8/2014 có 07 hộ dân có diện tích đất rừng liền kề với diện tích đất của gia đình ông Kh có đến hỏi ông cho cùng đi chung con đường và đã đóng góp tiền cho ông để chi trả thuê máy cuốc đường, đến năm 2018 xảy ra tranh chấp với ông Ninh Quốc V.
Đối với ông Ninh Quốc V. Tháng 4/2018 ông V nhận chuyển nhượng diện tích đất khoảng 3,0ha tại khu vực khe Bằm Bằm thuộc thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang của ông Đào Văn M với trị giá 110.000.000 đồng. Khi nhận chuyển nhượng đất các bên có viết Giấy chuyển nhượng, có chữ ký của hai bên và xác nhận của chính quyền địa phương. Ông V đã trả đầy đủ số tiền nhận chuyển nhượng đất cho ông M, ông M đã giao đủ diện tích đất cho ông quản lý sử dụng từ đó cho đến nay. Khi nhận chuyển nhượng diện tích đất của ông M đã có một con đường đi lại trên phần diện tích đất này, ông M nói là ông V được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất của con đường đó. Tuy nhiên sau khi nhận chuyển nhượng đất xong, ông Lý Văn Kh đã ngăn cản không cho ông V sử dụng đi lại con đường này, ông Kh yêu cầu ông V phải đóng góp số tiền 70.000.000 đồng cho ông Kh thì mới được quyền đi lại. Ông V không nhất trí nên đã tự mở một con đường khác ở ch n lô để đi lại và ông V cũng không cho ông Kh đi lại con đường trên diện tích đất của ông đang quản lý, sử dụng nên đã xảy ra tranh chấp.
Khi ông V cho máy múc phá ta luy m, ta luy dương và trồng cây keo trên phần đất đường đi, từ đó ông Kh và các hộ d n không có đường đi vào đất phía bên trong của gia đình để canh tác sản xuất, nên ông Kh không thể chăm sóc số cây cam gia đình đã trồng khoảng 800 cây, dẫn đến 500 cây cam đã bị chết và 300 cây cam đã bị bệnh, tổng trị giá cây cam bị thiệt hại là 57.000.000 đồng. Từ đó Toà án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp giữa nguyên đơn ông Lý Văn Kh với bị đơn ông Ninh Quốc V và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn B, ông Lý Văn Th, ông Bàn Văn P, ông Lý Văn K, ông Lý Văn D, bà Trần Thị Nh, ông Đào Văn M, ông Lý Văn H, ông Hoàng Văm Lún, bà Nguyễn Thị X, Uỷ ban nhân dân xã Y.L là quan hệ “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” là không có căn cứ. Th c tế các đương sự không tranh chấp quyền sử dụng đất mà chỉ tranh chấp lối đi qua để đi vào khu đất canh tác ông Lý Văn Kh và các hộ dân có diện tích đất rừng liền kề. Do vậy Toà án cấp phúc thẩm xác định quan hệ tranh chấp giữa nguyên đơn ông Lý Văn Kh với bị đơn ông Ninh Quốc V và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Văn B, ông Lý Văn Th, ông Bàn Văn P, ông Lý Văn K, ông Lý Văn D, bà Trần Thị Nh, ông Đào Văn M, ông Lý Văn H, ông Hoàng Văm Lún, bà Nguyễn Thị X, Uỷ ban nhân dân xã Y.L là quan hệ “Tranh chấp lối đi qua và yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm”.
[3]. Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D Hội đồng xét xử thấy rằng:
Năm 2007 gia đình ông Kh tr c tiếp khai phá được diện tích đất khoảng 15ha tại khu vực khe Bằm Bằm thuộc thôn Ng, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang và canh tác sử dụng ổn định. Tháng 8/2014 ông Kh thuê máy cuốc mở đường đi lên đến phần đất của gia đình ông (trong đó có mở đường qua phần đất của ông Lý Văn H với chiều dài khoảng 800m). Sau khi ông Kh mở xong đường đi đến ngày 26/8/2014 có 07 hộ dân có diện tích đất rừng liền kề với diện tích đất của gia đình ông xin đi chung đường và đã đóng góp tiền cho ông để chi trả thuê máy cuốc đường, đến năm 2018 xảy ra tranh chấp với ông Ninh Quốc V.
Việc ông Kh trao đổi với ông H về việc mở đường đi qua phần đất của ông H đang quản lý, sử dụng được ông H nhất trí và tr c tiếp phát dọn một đoạn đường đi theo ven bờ suối đến phần đất của ông Kh và đề nghị ông Kh cho máy cuốc đường theo đúng diện tích đất ông đã phát dọn trước đó nhưng ông Kh đã không mở đường như hai bên đã thỏa thuận, mà ông Kh tự ý cho máy cuốc đường đi cắt ngang (chia đôi) diện tích đất của gia đình ông H, việc ông Kh mở đường ông H không có mặt nên không biết, đến khi biết ông Kh cuốc đường cắt ngang diện tích đất nhà ông thì ông H không nhất trí cho ông Kh cuốc đường đi theo vị trí này, nhưng vì ông Kh hứa sẽ vay tiền cho ông thuê người cuốc ao nên ông vẫn nhất trí cho ông Kh tiếp tục đi qua đất của nhà ông. Ông xác định chỉ cho ông Kh mượn đất để làm đường đi qua, không phải chuyển nhượng hay góp đất cho ông Kh để làm đường đi, do đó diện tích đất con đường này vẫn thuộc quyền quản lý và sử dụng của ông, không phải của ông Kh và các hộ dân khác.
Đến ngày 25/6/2017 ông H đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất khoảng 2,5ha cho ông M trong đó có cả con đường đi ngang qua diện tích đất của ông. Đến ngày 07/4/2018 ông M chuyển nhượng lại toàn bộ diện tích đất đã nhận chuyển nhượng của ông H cho ông Ninh Quốc V với trị giá 110.000.000 đồng. Khi chuyển nhượng đất, các bên viết Giấy chuyển nhượng đất và chính quyền địa phương chứng kiến xác nhận. Ông xác định ông V đã trả tiền chuyển nhượng đất xong cho ông, ông M cũng đã giao diện tích đất cho ông V quản lý sử dụng từ đó cho đến nay. Khi chuyển nhượng diện tích đất cho ông V, ông M nói rõ là ông V được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất của con đường đi qua diện tích đất của ông V.
UBND xã Y.L xác nhận con đường đi các bên đang tranh chấp là do ông Kh và các hộ dân tự mở đường đi, không xin ý kiến, không báo cáo chính quyền địa phương, theo quy định về quản lý đất đai của UBND xã thì không cho phép bất cứ cá nhân, tổ chức nào tự ý mở đường đi lại. Hiện nay UBND xã Y.L chưa có kế hoạch mở con đường đi qua diện tích đất đang tranh chấp. Toàn bộ diện tích đất đang tranh chấp chưa có cá nhân, tổ chức nào làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do vậy con đường đi do ông Kh và các hộ dân tự mở không thuộc quyền quản lý của ông Kh. Do vậy Toà án nhân dân huyện H.Y xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lý Văn Kh là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông Kh không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh con đường đi qua diện tích đất đang tranh chấp này thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông Kh. Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D.
- Đối với yêu cầu rút một phần yêu cầu kháng cáo về thiệt hại 500 cây cam bị chết và 300 cây cam đã bị bệnh, tổng trị giá cây cam bị thiệt hại 57.000.000 đồng, HĐXX xét thấy việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện nên HĐXX Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần rút yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn.
[3]. Về chi phí tố tụng: Ông Lý Văn Kh phải chịu số tiền thẩm định và định giá tài sản 15.219.886đ (Mười lăm triệu hai trăm mười chín nghìn tám trăm tám mươi sáu đồng). Ông Lý Văn Kh đã nộp đủ số tiền trên.
[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Lý Văn Kh phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm và 2.850.000đ (Hai triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự có giá ngạch. Tổng cộng 3.150.000đ (Ba triệu một trăm năm mươi nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông Kh đã nộp 1.725.000 đồng (Một triệu bẩy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0002493 ngày 13/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang. Ông Lý Văn Kh phải nộp tiếp số tiền án phí 1.425.000 đồng (Một triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
- Ông Ninh Quốc V không phải nộp tiền án phí.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 245, 246, 254 Bộ luật Dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2022/DS-ST, ngày 21/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang như sau:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lý Văn Kh về việc “Tranh chấp lối đi qua và yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm” đối với bị đơn ông Ninh Quốc V.
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo đề nghị ông Ninh Quốc V bồi thường thiệt hại 500 cây cam bị chết và 300 cây cam đã bị bệnh, tổng trị giá cây cam bị thiệt hại là 57.000.000 đồng (Năm mươi bảy triệu đồng).
2. Tạm giao cho ông Ninh Quốc V được quyền quản lý, sử dụng đối với diện tích đất là 735,6m2 đất rừng sản xuất thuộc lô số 41, khoảnh 153 tại khe Bằm Bằm thôn Q.T, xã Y.L, huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang. Diện tích đất trên được giới hạn bởi các điểm nối liền liên tục là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 30, 1 như Sơ đồ đo vẽ, thẩm định do Công ty TNHH MTV dịch vụ tài nguyên môi trường Hà Tuyên thực hiện ngày 04/8/2020 (Có sơ đồ kèm theo bản án).
3. Về chi phí tố tụng:
- Ông Lý Văn Kh phải chịu số tiền thẩm định và định giá tài sản là 15.219.886đ (Mười lăm triệu hai trăm mười chín nghìn tám trăm tám mươi sáu đồng). Ông Lý Văn Kh đã nộp đủ số tiền trên được thể hiện tại Biên bản làm việc về thanh toán tiền tạm ứng chi phí thẩm định, định giá tài sản ngày 01/9/2021 và tại Hóa đơn giá trị gia tăng số 0000070, ngày 22/9/2020 của Công ty TNHH MTV dịch vụ Tài nguyên môi trường Hà Tuyên.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Lý Văn Kh phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm và 2.850.000đ (Hai triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự có giá ngạch. Tổng số tiền án phí ông Lý Văn Kh phải nộp là 3.150.000đ (Ba triệu một trăm năm mươi nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông Kh đã nộp là 1.725.000 đồng (Một triệu bẩy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0002493 ngày 13/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang. Ông Lý Văn Kh phải nộp tiếp số tiền án phí là 1.425.000 đồng (Một triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
- Ông Ninh Quốc V không phải nộp tiền án phí.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lý Văn Kh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; ông Hoàng Văn B; ông Lý Văn Th; ông Bàn Văn P; ông Lý Văn K; ông Lý Văn D mỗi người phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0004691; 0004692; 0004693; 0004694; 0004695; 0004696 ngày 24/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.Y, tỉnh Tuyên Quang các đương sự kháng cáo đã nộp đủ số tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 22/6/2022.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp lối đi qua và yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm số 27/2022/DS-PT
Số hiệu: | 27/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về