Bản án về tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất số 169/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 169/2023/DS-PT NGÀY 17/04/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 11/01/2023 và 17/4/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 208/2022/TLPT- DS ngày 06 tháng 10 năm 2022 về Tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất;

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2022/DS-ST ngày 21 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C T bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 372/2022/QĐ-PT ngày 21 tháng 11 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Lê Tùng C, sinh năm 1966;

Người đại diện theo ủy quyền của ông C là: Bà Hà Túy P, sinh năm 1969 (Theo văn bản ủy quyền ngày 07/10/2022);

Cùng địa chỉ: Số nhà 364, Tổ 5, ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ.

- Bị đơn:

1. Lê Thị K, sinh năm 1942;

Địa chỉ: Số nhà 360, Tổ 5, ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ.

Người đại diện theo ủy quyền của bà K là: Bà Nguyễn Thị Thủy T, sinh năm 1965; Địa chỉ: Số nhà 362, Tổ 5, ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 01/3/2022).

2. Lê Thị B, sinh năm 1939;

Địa chỉ: Tổ 12, ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ.

3. Lê Thị N, sinh năm 1955;

Địa chỉ: Số 233/A, Tổ 1, ấp Phú Nhuận, xã Tân Nhuận Đông, huyện C Thành, tỉnh Đ.

4. Lê Thị S, sinh năm 1947;

Địa chỉ: Số nhà 163/6, đường Nguyễn Thái Sơn, Phường 7, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà B, bà N và bà S là: Anh Trịnh Quốc V, sinh năm 1984; Địa chỉ: Ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ (Theo văn bản ủy quyền ngày 01/3/2022).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Lê Thị Tuyết Tr, sinh năm 1970;

Địa chỉ: Tổ 5, ấp An Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ.

2. Lê Thành Trung, sinh năm 1976;

3. Lê Văn Nhàn, sinh năm 1972;

Cùng địa chỉ: Số nhà 362/1, ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ.

4. Hà Túy P, sinh năm 1969;

5. Lê Thanh Đ, sinh năm 1990;

6. Lê Thanh D, sinh năm 1994;

Cùng địa chỉ: Số nhà 364, Tổ 5, ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ.

7. Lê Minh Thiện, sinh năm 1968;

Địa chỉ: Tổ 5, ấp Tân Thạnh, xã An Nhơn, huyện C Thành, tỉnh Đ.

- Người kháng cáo: Ông Lê Tùng C là nguyên đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Bà Hà Túy P là người đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn ông Lê Tùng C, đồng thời là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Cụ Phạm Thị K sinh năm 1912, chết năm 2014 là bà nội của ông Lê Tùng C. Năm 1995, cụ K được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu tổng diện tích là 12.000m2. Đến ngày 27/03/2002 cụ K được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Thửa 1476, diện tích 2.010m2; thửa 1477, diện tích 1.810m2; thửa 1502, diện tích 4.473m2. Cả 03 thửa đất cùng tờ bản đồ số 02, tổng diện tích là 8.550m2.

Hàng thừa kế thứ nhất của cụ K gồm: Ông Lê Văn S (Chồng cụ K chết trước năm 1975); Bà Lê Thị B; Bà Lê Thị K; Bà Lê Thị S; Bà Lê Thị N; Ông Lê Văn Ng (Chết năm 1968, không có vợ con); Ông Lê Văn T (Chết khi còn nhỏ); Ông Lê Văn N (Chết trước năm 1975, không có vợ con); Ông Lê Văn T (Chết năm 1991; Người thừa kế thế vị của ông T gồm: Ông Lê Tùng C; anh Lê Minh Thiện; chị Lê Thị Tuyết Tr; anh Lê Văn Nhàn; anh Lê Thành Trung).

Năn 2016, bà Lê Thị K, bà Lê Thị B, bà Lê Thị S, bà Lê Thị N khởi kiện tranh chấp chia thừa kế đối với di sản là phần đất do cụ K để lại. Tại Bản án số 39/2021/DS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện C Thành đã căn cứ vào Tờ chúc ngôn ngày 15/9/2003 của cụ K để giải quyết chia toàn bộ các thửa 1477 và 1502. Đối với thửa số 1476 thì chỉ giải quyết một phần, còn lại diện tích 450m2 (Đo đạc thực tế là 410m2) thuộc một phần thửa 1476, là phần ao cặp sông Dưa do ông Lê Tùng C trực tiếp quản lý hơn 32 năm, nhưng do Hội đồng xét xử cho rằng các đương sự không ai có tranh chấp, không có yêu cầu trong vụ án nên không được giải quyết trong Bản án số 39/2021/DS-ST ngày 29/10/2021.

Phần đất ao diện tích 410m2 này, ông T và các con ông T đào khoảng năm 1976. Ông C sử dụng từ năm 1989 đến nay, bà K, bà B, bà N, bà S không sử dụng phần diện tích đất này. Ông C bắt đầu nuôi cá từ năm 1989 đến khoảng năm 2012 thì không nuôi nữa. Hiện nay trong ao là cá sông tự nhiên vào. Các cây bần trên đất là của ông T trồng nhưng đã chết hết. Sau đó, ông C trồng 05 cây bần lớn và các cây bần nhỏ, ông C không có yêu cầu gì đối với các cây bần trên phần đất tranh chấp và ông C không yêu cầu định giá cây.

Phần đất ao này không nằm trong diện tích đất được cụ K chia trong Tờ chúc ngôn ngày 15/9/2003. Tuy nhiên, ngày 01/6/1993 cụ K có làm đơn xin bảo lãnh để ông C được tách hộ khẩu, đồng thời cho ông C 2.000m2 đất, gồm có 1.500m2 đất ruộng và 500m2 đất thổ cư trong đó có phần đất ao 410m2 đất.

Vì vậy, ông Lê Tùng C yêu cầu được quyền sử dụng diện tích 410m2 đất thuộc một phần thửa số 1476, tờ bản đồ số 02, do cụ Phạm Thị K đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong phạm vi các mốc 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 về mốc 1 theo sơ đồ đo đạc ngày 12/4/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C Thành.

- Bị đơn:

+ Bà Lê Thị K trình bày:

Bà thống nhất với ông C về những người thừa kế của cụ K. Đối với di sản do cụ K để lại gồm: Thửa 1476, diện tích 2.010m2; thửa 1477, diện tích 1.810m2; thửa 1502, diện tích 4.473m2. Cả 03 thửa đất cùng tờ bản đồ số 02, tổng diện tích là 8.550m2, đo đạc thực tế là 9.312m2. Do đó, khi giải quyết chia thừa kế theo Tờ chúc ngôn ngày 15/9/2003 thì còn lại phần diện tích 450m2 (Đo đạc thực tế 410m2) đất ao cặp sông Dưa chưa được giải quyết chia thừa kế theo Bản án số 39/2021/DS-ST ngày 29/10/2021. Đây là phần đất nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cụ K để lại. Vì vậy, đây cũng là di sản do cụ K để lại chưa được chia thừa kế.

Phần đất diện tích 410m2 đất này, ông T đào ao khoảng năm 1976. Ông C chỉ sử dụng từ năm 1995 đến nay. Đồng thời, diện tích thực tế mà ông C sử dụng là từ mé nhà ông C kéo xuống mé sông đến giáp ranh ông C. Từ mé nhà ông C xuống mé sông trở về giáp ranh ông Được thì bà K sử dụng.

Ngăn cách giữa phần đất bà K sử dụng và phần đất ông C sử dụng có một cái bờ nhưng đã lạn. Ông C là người bắt cá trong ao này nhưng cá trong ao là cá tự nhiên vào. Các cây bần trên đất là của ông T cha của ông C trồng (05 cây bần lớn) còn các cây bần nhỏ là tự mọc.

Do đó, bà yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích đất 410m2 thuộc một phần thửa thửa số 1476, tờ bản đồ số 02, do cụ Phạm Thị K đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà yêu cầu được nhận 82m2 đất phần giáp với đất ông Được nằm trong phạm vi các mốc 1, 2, 11, 12 về mốc 1 theo sơ đồ đo đạc ngày 12/4/2022. Còn các cây bần trên phần diện tích này thì ông C tự di dời.

+ Bà Lê Thị S, bà Lê Thị B và bà Lê Thị N trình bày:

Các bà thống nhất với ông C, bà T về những người thừa kế của cụ K, về di sản do cụ K để lại, cũng như thống nhất theo kết quả giải quyết của bản án số 39/2021/DS-ST ngày 29/10/2021.

Đối với diện tích 410m2 đất thuộc một phần thửa 1476 chưa được chia thừa kế theo bản án số 39/2021/DS-ST ngày 29/10/2021 thì yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật. Cụ thể: Bà S yêu cầu được chia diện tích 82m2 nằm trong phạm vi các mốc 2, 3, 10, 11về 2; Bà N yêu cầu chia diện tích 82m2 nằm trong phạm vi các mốc 3, 4, 9, 10 về mốc 3; Bà Lê Thị B yêu cầu chia diện tích 82m2 nằm trong phạm vi các mốc 4, 5, 8, 9 về mốc 4. Còn các cây bần trên đất thì ông C tự di dời.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 35/2022/DS-ST ngày 21/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện C Thành đã xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Tùng C.

2. Chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích 410m2 đất thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, loại đất trồng cây lâu năm do bà Phạm Thị K đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đó:

- Ông Lê Tùng C được quyền quản lý sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, loại đất trồng cây lâu năm nằm trong phạm vi các mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5.

- Bà Lê Thị K được quyền quản lý sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, loại đất trồng cây lâu năm nằm trong phạm vi các mốc 1, 2, 11, 12 về mốc 1.

- Bà Lê Thị B được quyền quản lý sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, loại đất trồng cây lâu năm nằm trong phạm vi các mốc 4, 5, 8, 9 về 4.

- Bà Lê Thị S được quyền sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, loại đất trồng cây lâu năm nằm trong phạm vi các mốc 2, 3, 10, 11 về mốc 2.

- Bà Lê Thị N được quyền quản lý sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, loại đất trồng cây lâu năm nằm trong phạm vi các mốc 3, 4, 9, 10 về mốc 3.

Kèm theo sơ đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 12/4/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C Thành, tỉnh Đ và biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23/3/2022.

Ông Lê Tùng C có nghĩa vụ di dời các cây trồng trên phần đất mà bà Lê Thị K, bà Lê Thị ba, bà Lê Thị N, bà Lê Thị S được sử dụng Bà Lê Thị K, bà Lê Thị B, bà Lê Thị N, bà Lê Thị S, ông Lê Tùng C, được đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kê khai, đăng ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác, quyền và thời hạn kháng cáo, quyền, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/8/2022 ông Lê Tùng C làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng Chấp nhận cho ông được quyền sử dụng diện tích 410m2 đất ao.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của mình. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ phát biểu ý kiến Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng như Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự có mặt tại phiên tòa đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông C, sửa một phần bản án sơ thẩm. Chia thừa kế cho ông C 2/6 diện tích đất tranh chấp. Trong đó, 1/6 diện tích chia cho ông C bằng tiền theo quy định của pháp luật. Do phần đất phân chia bằng hiện vật mỗi người 1/6 thì diện tích sẽ nhỏ không đảm bảo trong việc sử dụng đất.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Tại Bản án số 39/2021/DS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện C Thành đã giải quyết chia thừa kế đối với di sản do cụ K để lại. Tuy nhiên, đối với phần diện 410m2 thuộc một phần thửa 1476 là phần đất dôi dư so với diện tích cụ K phân chia trong tờ chúc ngôn ngày 15/9/2003. Quá trình giải quyết vụ án chia thừa kế tại Bản án số 39/2021/DS-ST ngày 29/10/2021, các Nguyên đơn không yêu cầu chia diện tích này và chưa được giải quyết trong vụ án tranh chấp chia thừa kế di sản của cụ K. Trong phần Quyết định của bản án có tuyên rõ: “1.6. Phần diện tích 450m2 thuc thửa số 1476, tờ bản đồ số 02 thể hiện qua các mốc 7, 8, 9, 10, 7 theo sơ đồ đo đạc ngày 08/4/2021. Các đương sự không yêu cầu, không có tranh chấp trong vụ án nên không xem xét giải quyết”. Khi bản án có hiệu lực pháp luật các đương sự không có khiếu nại giám đốc thẩm và đã được thi hành xong. Như vậy, phần diện tích 410m2 đất này là di sản của cụ K chưa được chia thừa kế.

[2] Ông C cho rằng ngày 01/6/1993, cụ K có làm đơn xin bảo lãnh để ông được tách hộ khẩu, đồng thời cho ông 2.000m2 đất, gồm 1.500m2 đất ruộng và 500m2 đất thổ cư trong đó có phần đất ao 410m2. Theo đơn bảo lãnh ngày 01/6/1993 không thể hiện là cụ K có cho ông C phần diện tích đất 410m2 nêu trên. Tòa án cấp sơ thẩm chia thừa kế theo pháp luật cho các đương sự diện tích đất nêu trên là có căn. Tuy nhiên, ông C là người đã quản lý sử dụng phần đất trên trong thời gian dài nên cần phải xem xét công sức giữ gìn cải tạo đất của ông C để chia cho ông C nhiều hơn các đồng thừa kế còn lại một phần di sản mới phù hợp. Do đó, di sản được chia như sau:

410m2 : 6 phần = 68,3m2, ông C được chia 2 phần là (68,3m2 + 68,3m2 = 136,6m2) 136,6m2. Các đồng thừa kế còn lại mỗi người được chia 68,3m2. Tuy nhiên, nếu chia bằng hiện vật cho các đương sự như trên diện tích đất nhỏ không đảm bảo cho việc sử dụng đất có hiệu quả cao. Vì vậy, giữ nguyên như án sơ thẩm đã chia cho các đồng thừa kế mỗi người 82m2 đất và những người nhận diện tích đất nhiều hơn phần thừa kế của mình phải trả giá trị phần chênh cho ông C là: 82m2 – 68,3m2 = 13,7m2. Căn cứ vào Biên bản định giá ngày 23/3/2022 của Hội đồng định giá thì đất tranh chấp có giá 250.000đ/m2. Vì vậy, bà K, bà B, bà S và bà N mỗi người phải trả cho ông C 13,7m2 x 250.000đ = 3.425.000đ.

[3] Xét ý kiến đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ là có căn cứ nên chấp nhận.

Từ những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của ông C, sửa một phần bản án sơ thẩm.

Phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 147, Điều 148, Điều 91, Điều 157, Điều 165, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 100, Điều 166, Điều 167, Điều 203 Luật đất đai; Điều 650, Điều 651, Điều 652, Điều 688 Bộ luật dân sự Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Lê Tùng C.

2. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 35/2022/DS-ST ngày 21/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện C Thành, tỉnh Đ.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Tùng C.

4. Chia thừa kế theo pháp luật đối với diện tích 410m2 đất thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, đất trồng cây lâu năm, do bà Phạm Thị K đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như sau:

- Ông Lê Tùng C được quyền sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, đất trồng cây lâu năm, trong phạm vi các mốc 5, 6, 7, 8 về mốc 5.

- Bà Lê Thị K được quyền sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, đất trồng cây lâu năm, trong phạm vi các mốc 1, 2, 11, 12 về mốc 1.

- Bà Lê Thị B được quyền sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, đất trồng cây lâu năm, trong phạm vi các mốc 4, 5, 8, 9 về 4.

- Bà Lê Thị S được quyền sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, đất trồng cây lâu năm, trong phạm vi các mốc 2, 3, 10, 11 về mốc 2.

- Bà Lê Thị N được quyền sử dụng diện tích 82m2 thuộc một phần thửa 1476, tờ bản đồ số 02, đất trồng cây lâu năm, trong phạm vi các mốc 3, 4, 9, 10 về mốc 3.

Kèm theo sơ đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp ngày 12/4/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C Thành, tỉnh Đ và biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 23 tháng 3 năm 2022 của Tòa án.

Ông Lê Tùng C, bà Hà Túy P, anh Lê Thanh Đ và anh Lê Thanh Huy có nghĩa vụ di dời các cây trồng trên đất (Nếu có) và giao các diện tích đất nêu trên cho bà Lê Thị K, bà Lê Thị B, bà Lê Thị N và bà Lê Thị S sử dụng.

Bà Lê Thị K, bà Lê Thị B, bà Lê Thị N, bà Lê Thị S và ông Lê Tùng C được đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

5. Bà Lê Thị K, bà Lê Thị B, bà Lê Thị N và bà Lê Thị S mỗi người có nghĩa vụ trả cho ông Lê Tùng C 3.425.000đ (B triệu bốn trăm hai mươi lăm ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành xong số tiền trên, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn lại phải thi hành, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

6. Về án phí:

- Ông Lê Tùng C phải chịu 1.707.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm và được trừ vào 1.069.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lại thu số 0000240 ngày 14/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C Thành. Ông C còn phải nộp tiếp 638.500 đồng.

- Bà Lê Thị K, bà Lê Thị B, bà Lê Thị N và bà Lê Thị S được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm.

7. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:

Bà Lê Thị K, bà Lê Thị B, bà Lê Thị N, bà Lê Thị S và ông Lê Tùng C mỗi người phải chịu 493.000 đồng. Do ông C đã nộp tạm ứng trước nên bà K, bà B, bà N, bà S mỗi người phải trả lại cho ông C số tiền 493.230 đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất số 169/2023/DS-PT

Số hiệu:169/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 17/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;