TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 454/2022/HS-PT NGÀY 24/06/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 194/2022/TLPT-HS ngày 28 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố H.
Bị cáo bị kháng nghị:
Họ và tên: Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 tại H; Giới tính: Nữ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Cụm 1, Xã L, huyện Đ, H; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn G; Con bà Trịnh Thị K; Chồng là Nguyễn Quang C sinh năm 1968 (đã bị xét xử Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong một vụ án khác), có 02 con đã thành niên; Danh chỉ bản số 046 lập ngày 20/01/2021 tại Công an huyện Đ; Tiền sự: Không;
Tiền án: 01 (Bản án số 251/2010/HSST ngày 30/11/2010, Tòa án nhân dân huyện T1, H xử phạt 06 tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, phạt tiền 10.000.000 đồng, bị cáo chưa thi hành phần án phí, phạt tiền 10.000.000 đồng).
Nhân thân: 02 lần bị kết án (Bản án số 92/2013/HSST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân huyện H1, H xử phạt 05 tháng 13 ngày tù về tội “Đánh bạc”, phạt tiền 4.000.000 đồng, đã thi hành xong bản án - đã được xóa án tích; Bản án số 18/2017/HSST ngày 29/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh V xử 02 năm 06 tháng tù về tội Đánh bạc, Phạt tiền 3.000.000 đồng, đã thi hành xong bản án - đã được xóa án tích);
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2021 đến nay; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố H; có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Đình T2 - Luật sư Công ty Luật TNHH N thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 10/01/2021, tại đường tỉnh lộ 414, thôn Đ1, xã M, huyện B, H, Công an huyện Đ, H kiểm tra xe máy nhãn hiệu Honda, BKS:
90B1-85758 do Nguyễn Thị T điều khiển, bắt quả tang T vận chuyển trái phép chất ma túy. T giữ trong bộ phận lọc gió của xe máy 04 khối hình hộp chữ nhật có kích thước khác nhau, bên ngoài đều quấn băng dính màu đen, bên trong đều chứa chất bột màu trắng. Ngoài ra, còn thu giữ của T 01 xe máy BKS: 90B1- 85758, 01 giấy đăng ký xe máy, 01 điện thoại di động lắp sim số thuê bao 0336796830 và 5.300.000 đồng (năm triệu ba trăm nghìn đồng). Đối tượng và tang vật đã được đưa về trụ sở cơ quan Công an để điều tra làm rõ.
Tại Kết luận giám định số 582/KLGĐ-PC09 ngày 17/01/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H đã kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 04 khối hình hộp chữ nhật quấn ngoài bằng băng dính đen và các lớp nilông, giấy nến gồm: Chất bột màu trắng bên trong 01 khối kích thước (16x3x11)cm là ma túy loại Heroine, khối lượng 351,90 gam; Chất bột màu trắng bên trong 01 khối kích thước (11x3x9)cm là ma túy loại Heroine, khối lượng 165,23 gam; Chất bột màu trắng bên trong 01 khối kích thước (9x3x5)cm là ma túy loại Heroine, khối lượng 77,16 gam; Chất bột màu trắng bên trong 01 khối kích thước (8x3x6)cm là ma túy loại Heroine, khối lượng 89,65 gam”.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị T khai: Ngày 08/01/2021, Nguyễn Thị T gặp H1 (bạn xã hội) tại Bệnh viện đa khoa S, H, H1 sinh năm 1969, đặc điểm cao 1m55, tóc ngang vai, trú tại thị xã S, H (không rõ địa chỉ cụ thể) sử dụng số điện thoại có đuôi số “69”. Biết T không có việc làm, H1 thuê T vận chuyển ma túy từ huyện M1, tỉnh S1 về thị xã S, H. H1 hứa trả công 20.000.000 đồng tiền công, khi Thu mang được ma túy về thị xã S, H sẽ có người liên lạc nhận ma túy và trả tiền công. Khoảng 21 giờ tối ngày 09/01/2021, H1 gọi cho T bảo lên huyện M1, tỉnh S1 mang ma túy về H, khi lên gọi cho M2. T lưu số điện thoại M2 trong điện thoại là “Met”. Một lúc sau có một người đàn ông sử dụng số điện thoại 0346605519 gọi tới số 0336796830 của T tự nhận là em chị H1 và hẹn T giao nhận ma túy vào sáng ngày 10/01/2021 tại huyện M1, S1. Vào 6 giờ ngày 10/01/2021, T thuê ô tô taxi lên M1, S1, trên đường đi H1 liên lạc bảo T đi qua biển báo huyện M1, tỉnh S1 khoảng 10km thì sẽ gặp người đàn ông đội mũ bảo hiểm màu xanh, đeo khẩu trang trắng đứng đợi ở ven đường Quốc lộ 6 để giao nhận ma túy. Khi xe đi qua biển báo huyện M1, S1 khoảng 15km, T gặp một người đàn ông đội mũ bảo hiểm màu xanh, đeo khẩu trang trắng đi xe máy Honda, BKS 90B1-85758 đứng đợi ven đường Quốc lộ 6. Tại đây, người đàn ông bảo T chờ để anh ta đi lấy “hàng”, khoảng 1 giờ sau người đàn ông quay lại và bảo T “hàng để ở trong lọc gió đấy chị mang về đi”, T hiểu là “ma túy để trong bầu lọc gió xe máy”. Sau đó người đàn ông giao xe máy BKS 90B1-85758 và giấy đăng ký xe máy cho T, T điều khiển xe về thị xã S, H để giao ma túy cho H1. Khi đi đến đường tỉnh lộ 414, thuộc thôn Đ1, xã M, huyện B, H thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Lý do T biết trong bình lọc gió xe máy là ma túy vì H1 nói T vận chuyển ma túy là hàng trắng, bản thân T biết đó là Heroine. H1 chưa trả tiền công cho T và đây là lần đầu tiên T vận chuyển ma túy cho 1.
Căn cứ bảng kê các cuộc gọi đến, đi của số 0336796830 của Nguyễn Thị T và số 0346605519 của đối tượng giao ma túy xác định từ ngày 09/01/2021 đến ngày 10/01/2021 số 0336796830 liên lạc với số 0346605519 là 8 cuộc. Vị trí cột sóng tại bản T2, xã L, huyện V, S1, Nguyễn Thị T khai đây là nơi T liên lạc và nhận ma túy của người đàn ông sử dụng số điện thoại 0346605519.
Xác minh đăng ký chủ thuê bao số điện thoại 0346605519 là của Giàng A N1, sinh ngày 06/04/1988, trú tại Bản L, xã L, huyện V, tỉnh S1, số CMND 50555887, do Công an tỉnh S1 cấp ngày 28/02/2018.
Xác minh tại Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội - Công an tỉnh S1 cung cấp số CMND 050555887 cấp ngày 28/02/2018 là Giàng A N1, sinh ngày 06/04/1988, trú tại bản L, xã L, huyện V, S1. Xác minh tại địa phương xác định Giàng A N1 vắng mặt tại địa phương không rõ lý do.
Tổ chức cho Nguyễn Thị T nhận dạng ảnh của Giàng A N1 nhưng T không nhận dạng được (do người đàn ông giao ma túy khi gặp T đội mũ bảo hiểm và đeo khẩu trang).
Đối với người phụ nữ tên H1, sinh năm 1969, cao khoảng 1m55, tóc ngang vai, ở thị xã S, thành phố H, sử dụng số điện thoại có đuôi số „69‟ T khai không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể. Rà soát tại thị xã S, H không xác định được đối tượng H1 có đặc điểm nêu trên. Kiểm tra điện thoại và căn cứ bảng kê chi tiết các cuộc gọi đi, đến số 0336796830 của Nguyễn Thị T trong thời gian từ ngày 01/12/2020 - 10/01/2021 xác định không có tin nhắn và cuộc gọi nào liên lạc với số điện thoại có đuôi “69” như Thu đã khai.
Ngày 17/8/2021, Cơ quan điều tra đã quyết định tách phần tài liệu liên quan đến Giàng A N1, sinh năm 1988, trú tại bản L, xã L, huyện V, tỉnh S1, sử dụng số điện thoại 0346605519 và đối tượng tên H1, sinh năm 1969, cao khoảng 1m55, tóc ngang vai, ở thị xã S, thành phố H, sử dụng số điện thoại có đuôi số „69‟ để điều tra làm rõ, xử lý sau.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 10 tháng 01 năm 2022, Tòa án nhân dân thành phố H đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T Tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 19 tháng 01 năm 2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã ra Quyết định kháng nghị số 06 với nội dung đề nghị giảm hình phạt bị cáo Nguyễn Thị T từ Tử hình xuống mức án Chung thân.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt vì những lý do sau: Trong vụ án này do nghĩ chỉ là hàng cấm, không biết đó là ma túy, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên khi được H1 nói chỉ cần đi xe máy có sẵn hàng về S thì được trả 20 triệu tiền công, khi bị bắt khám xét xe bị cáo mới biết hàng cấm là Heroine, thực tế bị cáo cũng chưa được nhận tiền công, hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện nay cũng rất khó khăn, chồng bị cáo là Nguyễn Quang C cũng đã bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt Tử hình về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” nếu bị cáo mà bị Tử hình nữa thì cả hai vợ chồng đều bị xử Tử hình, như vậy thì rất khổ cho hai đứa con của bị cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội vẫn giữ nguyên quan điểm kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố H; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T mức hình phạt Chung thân là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
- Luật sư bào chữa cho bị cáo có quan điểm đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng nghị và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung:
Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 10/01/2021, tại đường tỉnh lộ 414, thôn Đ1, xã M, huyện B, H, Nguyễn Thị T bị Công an huyện Đ, H bắt quả tang đang có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy từ huyện M1, tỉnh S1 về thị xã S, H. Kiểm tra xe máy nhãn hiệu Honda, BKS: 90B1-857.58 do Nguyễn Thị T điều khiển thu giữ trong bộ phận lọc gió xe máy có 04 khối hình hộp chữ nhật bên ngoài đều quấn băng dính màu đen, bên trong đều chứa chất bột màu trắng. Qua giám định đã kết luận toàn bộ số bột trắng nêu trên là ma túy Heroine, tổng khối lượng là 683,940 gam. Nguyễn Thị T khai được một đối tượng tên là H1 thuê T lên huyện M1, tỉnh S1 nhận ma túy giấu trong chiếc xe máy mang biển kiểm soát 90B1-857.58 của một đối tượng tên là M2 mang về H với tiền công vận chuyển 20 triệu đồng.
Về nhân thân của bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ thì bị cáo đã ba lần bị xét xử đều về tội đánh bạc, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, cụ thể: Bản án số 251/2010/HS-ST ngày 30/11/2010, Tòa án nhân dân huyện T1, H xử phạt bị cáo 06 tháng Cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, phạt tiền 10.000.000 đồng, bị cáo chưa thi hành phần án phí, phạt tiền 10.000.000 đồng nên chưa được xóa án tích; Bản án số 92/2013/HSST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân huyện H1, H xử 05 tháng 13 ngày tù về tội Đánh bạc, phạt tiền 4.000.000 đồng, đã thi hành xong bản án (đã được xóa án tích); Bản án số 18/2017/HSST ngày 29/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh V xử 02 năm 06 tháng tù về tội Đánh bạc, Phạt tiền 3.000.000 đồng, đã thi hành xong bản án (đã được xóa án tích). Như vậy còn Bản bản án số 251/2010/HSST ngày 30/11/2010, Tòa án nhân dân huyện T1, H xử phạt Nguyễn Thị T 06 tháng Cải tạo không giam giữ về tội Đánh bạc, bị cáo chưa thi hành phần án phí, phạt tiền 10.000.000 đồng do đó việc xác định bị cáo chưa được xóa án tích là đúng. Tuy nhiên tại bản Bản án số 18/2017/HSST ngày 29/3/2017, Tòa án nhân dân tỉnh V lại xác định bị cáo chưa có tiền án, tiền sự từ đó dẫn đến bị cáo ngộ nhận và luôn nghĩ là mình đã được xóa án tích. Trên thực tế thì khoản tiền trên cũng đã được con trai của bị cáo là anh Nguyễn Quang T3 nộp trước ngày xét xử sơ thẩm (Biên lai số AA/2020/0024916 ngày 19/11/2021 của Cục thi hành án dân sự thành phố H).
[3] Xét nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Hội đồng xét xử thấy:
Từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình từ đó cho thấy hành vi phạm tội của bị cáo có tính giản đơn, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, khối lượng ma túy 683,940 gam heroine đã được thu giữ chưa bị phát tán ra ngoài xã hội. Vì H1 biết T không có việc làm, hoàn cảnh hiện tại rất khó khăn, nên thuê T vận chuyển ma túy từ huyện M1, tỉnh S1 về thị xã S, với giá 20.000.000 đồng tiền công, khi T mang được ma túy về thị xã S, H sẽ có người liên lạc nhận ma túy và trả tiền công. Khoảng 21 giờ ngày 09/01/2021, H1 gọi cho T bảo lên huyện M1, tỉnh S1 mang ma túy về H, khi lên gọi cho M2. T lưu số điện thoại M2 trong điện thoại là “Met”. Một lúc sau có một người đàn ông sử dụng số điện thoại 0346605519 gọi tới số 0336796830 của T tự nhận là em chị H1 và hẹn T giao nhận ma túy vào sáng ngày 10/01/2021 tại huyện M1, tỉnh S1.
Như vậy có thể thấy lời khai của T về đối tượng H1 là có cơ sở từ đó xác định vai trò của bị cáo. Trên thực tế bị cáo không biết rõ khối lượng cụ thể số ma túy được giấu kỹ trong bộ phận lọc gió xe máy, T chỉ biết đi chiếc xe máy có chứa ma túy do một người đàn ông đội mũ bảo hiểm màu xanh, đeo khẩu trang trắng đi về H theo sự chỉ đạo của H1 khi đang trên đường tỉnh lộ 414, thôn Đ1, xã M, huyện B, thành phố H thì bị Cơ quan Công an bắt giữ quả tang.
Việc Tòa án nhân dân thành phố H đánh giá hành vi phạm tội và tuyên bố Nguyễn Thị T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, căn cứ thái độ thành khẩn khai báo của bị cáo cũng như hoàn cảnh của bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, khó khăn về kinh tế, chỉ vì hám lời nhất thời nên đã nhận lời vận chuyển thuê ma túy cho đối tượng H1 và đặc biệt hơn nữa tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo khai chồng bị cáo là Nguyễn Quang C cũng đã bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt Tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” trong một vụ án khác (Bản án hình sự sơ thẩm số 172/2021/HS/ST ngày 09/6/2021 của TAND thành phố H). Do đó vì tính nhân đạo và chính sách khoan H1 của pháp luật, Hội đồng xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, giảm hình phạt cho bị cáo từ hình phạt Tử hình xuống hình phạt Chung thân.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ Điều 355, điểm đ khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
QUYẾT ĐỊNH
1. Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố H, cụ thể như sau:
Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T tù Chung thân về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
2. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 454/2022/HS-PT
Số hiệu: | 454/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về