TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 280/2022/HSPT NGÀY 22/04/2022 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai, vụ án hình sự thụ lý số 1190/2021/TLPT-HS ngày 29 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Trần Trọng T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 189/2021/HS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
* Bị cáo có kháng cáo:
Trần Trọng T, tên gọi khác: Không. Sinh ngày 29 tháng 9 năm 1994; Quê quán: xã Phúc L, huyện Đoan H, tỉnh Phú Thọ; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn 3, xã Phúc L, huyện Đoan H, tỉnh Phú Thọ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Trần Quang Tr và bà Nguyễn Kim H1; Có vợ: Hà Thị Th, sinh năm 1995, có một con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, sinh hoạt tại chi bộ 03 thuộc Đảng bộ xã Phúc L, huyện Đoan H, tỉnh Phú Thọ; Ngày 05/5/2020 bị Ủy ban kiểm tra huyện ủy Đoan H, tỉnh Phú Thọ đình chỉ sinh hoạt Đảng.
Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa từ ngày 15/01/2020 cho đến nay; Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo:
+ Các Luật sư Lê Tiến D, Đoàn Quốc D1 - Công ty luật TNHH Lê T1, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
+ Luật sư Hoàng Văn H2 - Công ty luật hợp danh Dương Hoàng Ng và Cộng sự, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ ngày 15 tháng 01 năm 2020, Tổ công tác Phòng CSĐT tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với tổ công tác của Phòng cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ tại Km 378+300 thuộc địa phận thôn Ninh Sơn, xã Trường Lâm, huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi Sơn), tỉnh Thanh Hóa thì phát hiện bắt quả tang Trần Trọng T, sinh năm 1994 trú tại thôn 3, xã Phúc L, huyện Đoan H, tỉnh Phú Thọ đang có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy trên xe ô tô nhãn hiệu Hyundai, Biển kiểm soát 30E-196.83.
Tang vật và tài sản thu giữ gồm:
- 04 túi khối hình hộp chữ nhật có kích thước khoảng (16cm x 14cm x 06cm), bên ngoài mỗi túi được bọc lớp nilon màu trắng, tiếp đến là lớp nilon màu vàng, trong cùng là lớp nilon màu trắng đều được hút chân không, bên trong các khối này đều chứa chất màu trắng dạng tinh thể thu ở lớp đệm của dãy ghế phía sau xe taxi BKS 30E-196.83;
- 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ Đảng viên mang tên Trần Trọng T;
- 03 điện thoại di động (01 điện thoại nhãn hiệu OPPO; 01 điện thoại nhãn hiệu IPHONE; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia) và số tiền 1.000.000VNĐ;
- 01 xe ôtô nhãn hiệu Hyundai, Biển kiểm soát 30E- 196.83;
- 01 giấy biên nhận thế chấp và 01 bản sao giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô; 01 dao inox loại dao gọt hoa quả, cán nhựa màu đen.
- 01 Thẻ ngân hàng BIDV mang tên Hà Thị Th.
Tại bản Kết luận giám định số 529/PC09 ngày 17/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: Chất màu trắng dạng tinh thể trong 04 khối hình hộp chữ nhật trong thùng giấy cát tông ký hiệu M được kết luận có tổng khối lượng là 3.933,03 gam là ma túy, loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra bị cáo Trần Trọng T khai nhận: Do làm nghề lái xe nên T quen biết Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1992; trú tại thôn Nhuế, xã Kim Chung, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội là khách hàng thường đi xe taxi của T. Đến ngày 10 tháng 01 năm 2020, khi T đang chở khách đến địa phận tỉnh Hưng Yên thì T2 gọi điện thoại cho T thuê T vào huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh để vận chuyển ma túy ra Hà Nội cho T2. T đồng ý nên T2 bảo T đi vào thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đợi khi nào có ma túy thì T2 sẽ gọi cho T đi lấy ma túy rồi mang về Hà Nội cho T2. Do không có tiền nên Trần Trọng T bảo T2 gửi trước cho T một ít tiền để đổ xăng xe và ăn uống trên đường nên ngày 10 tháng 01 năm 2020 T2 đã chuyển vào tài khoản 2201.0002.467.808 do T sử dụng (chủ thẻ là Hà Thị Th vợ T) 2.000.000VNĐ; sau đó đến ngày 14 tháng 01 năm 2020 T2 chuyển tiếp vào tài khoản trên cho T 1.500.000VNĐ.
Khoảng trưa ngày 10 tháng 01 năm 2020, Trần Trọng T sử dụng ô tô hiệu Hyundai i10 gắn biển hiệu Taxi Bắc Á, có Biển kiểm soát 30E-196.83 đi từ Hưng Yên vào đến xã Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. T dừng xe và thuê khách sạn để nghỉ ngơi (T không nhớ địa chỉ Khách sạn) để chờ điện thoại của T2. Đến chiều ngày 13/01/2020, T nhận được cuộc gọi của T2 bảo đến ngày mai sẽ có “hàng” (tức ma túy) và bảo T chuẩn bị đi vào huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Đến khoảng 18 giờ 00 phút ngày 14 tháng 01 năm 2020, T nhận được điện thoại của T2 bảo đi đến khu vực khách sạn Ngọc Long Châu, cách cửa khẩu cầu treo Hương Sơn, Hà Tĩnh khoảng 03km thì đậu xe bên đường sẽ có người đem 04 kg ma túy đá đến giao cho T và mang về Hà Nội cho T2. Đến khoảng 18 giờ 40 phút, T điều khiển xe ô BKS 30E-196.83 đi về hướng khách sạn Ngọc Long Châu thị trấn Tây Sơn, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Đến khoảng 22 giờ, T2 tiếp tục gọi điện thoại cho T bảo “đến chưa?”. T trả lời “Em đến gần khách sạn Long Châu rồi”. T2 bảo “em đi chậm thôi, mở hết cửa kính ra sẽ có người vứt hàng vào xe”. Theo chỉ đạo của T2, T mở hết các cửa xe ô tô xuống. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, thì có một người đàn ông đi đến ném một túi nilon màu đen vào ghế phụ xe ô tô của T rồi bỏ đi luôn. Sau đó, T kéo cửa kính xe lên, lái xe đến cây xăng gần đó có cột điện cao áp sáng thì dừng xe lại và mở túi nilon vừa nhận được để kiểm tra, thấy bên trong có 04 túi nilon đựng ma túy đá. T vứt túi nilon màu đen rồi lật ngửa ghế sau của xe ô tô, T lấy dao nhọn (loại dao gọt hoa quả) rạch phần đệm của ghế xe, nhét 04 túi ma túy vào phần đệm vừa rạch để cất dấu và lấy băng keo dán cố định ma túy vào ghế và đặt ghế lại như cũ, mục đích nhằm tránh sự phát hiện của lực lượng chức năng rồi điều khiển xe về Hà Nội đưa ma túy cho T2. Đến khoảng 02 giờ ngày 15 tháng 01 năm 2020 khi đi đến km 378+380, Quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn Ninh Sơn, xã Trường Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay là thị xã Nghi Sơn) thì bị Tổ công tác Phòng CSĐT tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Tổ công tác của Phòng cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Thanh Hóa phát hiện, bắt quả tang về hành vi của Trần Trọng T và thu giữ toàn bộ tang vật.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra tiến hành điều tra xác định có đối tượng Nguyễn Ngọc T2, sinh năm 1992; trú tại thôn Nhuế, xã Kim Chung, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, tiến hành nhận dạng, T nhận dạng ra đó là Nguyễn Ngọc T2. Cơ quan điều tra đã nhiều lần xác minh, triệu tập để làm việc nhưng T2 không có mặt theo giấy triệu tập và đi khỏi địa phương từ lâu, đi đâu làm gì không báo cho gia đình và địa phương biết. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm đối tượng.
Ngày 20 tháng 01 năm 2021, Nguyễn Ngọc T2 bị Phòng PC08, Công an tỉnh Thanh Hóa bắt quả tang và khởi tố, ra lệnh tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa đã có Thông báo đình chỉ truy tìm số 280/CSMT ngày 20 ngày 01 năm 2021 đối với Nguyễn Ngọc T2.
Ngày 02 tháng 3 năm 2021, Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 10/2021/HSST-QĐ yêu cầu làm rõ hành vi phạm tội của Nguyễn Ngọc T2 trong vụ án này. Ngày 10/3/2021, Viện kiểm sát Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 02/QĐ-VKS-P1 cho Cơ quan cảnh sát điều tra để làm rõ các nội dung trong Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Quá trình điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai của T2, đối chất giữa T2 và T nhưng T2 không thừa nhận hành vi thuê Trần Trọng T vận chuyển ma túy như T đã khai. Vì vậy, tiếp tục tách hành vi của Nguyễn Ngọc T2 để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ khi đủ căn cứ sẽ xử lý trong một vụ án khác.
Bản án hình sự sơ thẩm số 189/2021/HS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã tuyên bố bị cáo Trần Trọng T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 51; Điều 40, Điều 47; Điều 50 Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án; xử phạt bị cáo Trần Trọng T Tử hình; Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 23/11/2021, bị cáo Trần Trọng T có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm với nội dung kêu oan; bị cáo chỉ vận chuyển hàng cho Nguyễn Ngọc T2 mà không biết hàng là ma túy.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Trọng T vẫn giữ nguyên kháng cáo kêu oan; bị cáo không thừa nhận tội danh và khai nhận rằng bị cáo chỉ nhận vận chuyển hàng cho Nguyễn Ngọc T2 mà không biết hàng là ma túy. Trong buổi đối chất giữa bị cáo T và đối tượng Nguyễn Ngọc T2 thì bị cáo đã yêu cầu phải có mặt Luật sư bào chữa cho bị cáo nhưng cơ quan điều tra không chấp nhận nên buổi đối chất diễn ra thiếu thành phần tham dự. Bị cáo ký vào biên bản bắt quả tang một phần là do nhận thức pháp luật của bị cáo hạn chế và bị Công an đánh đập, ép cung. Vì vậy, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử minh oan cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Trọng T không thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng khi bị bắt quả tang, bị cáo bị đánh đập, ép cung nên mới phải ký vào biên bản phạm tội quả tang. Tuy nhiên, tại giấy khám sức khỏe khi bị cáo T nhập trại giam không thể hiện bị cáo có thương tích. Các lời khai tại cơ quan điều tra thì bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi giúp Nguyễn Ngọc T2 vào huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh để nhận ma túy mang ra Hà Nội cho T2 để lấy tiền công. Việc lấy những lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo không thắc mắc khiếu nại về các hành vi tố tụng của cơ quan điều tra nên việc bị cáo cho rằng bị ép cung, đánh đập là không có căn cứ. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần Trọng T đã vận chuyển 3.933,03 gam là ma túy, loại Methamphetamine từ Hương Sơn, Hà Tĩnh ra Hà Nội để lấy tiền công. Trên đường vận chuyển trái phép chất ma túy thì bị cáo bị lực lượng Công an bắt quả tang.
Tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi phạm tội và đẩy trách nhiệm cho Nguyễn Ngọc T2; bản thân bị cáo không biết T2 nhờ bị cáo vận chuyển ma túy, khi bị bắt quả tang thì bị cáo mới biết T2 nhờ bị cáo chở ma túy. Tuy nhiên, lời khai của bị cáo là mâu thuẫn với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Những lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra đều thể hiện rõ bị cáo biết vợ chồng T2, thậm chí bị cáo biết vợ T2 đã bị kết án về tội ma túy. Bị cáo biết rõ T2 thuê bị cáo chở ma túy từ Hương Sơn, Hà Tĩnh ra Hà Nội. Khi nhận hàng, bị cáo đi xe chậm, hạ kính xe xuống để người đưa ma túy ném vào xe của bị cáo và bị cáo còn lấy dao rạch ghế phía sau xe, lấy băng dính dán cố định ma túy vào xe, xong phủ ghế lên để dấu ma túy.
Cơ quan điều tra đã cho bị cáo và Nguyễn Ngọc T2 đối chất nhưng T2 không thừa nhận lời khai của bị cáo nên không có căn cứ để quy kết trách nhiệm của T2, cơ quan điều tra đã tách hành vi của T2 để tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Trọng T, đề nghị giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.
Luật sư D1 tranh luận: Khi bị cáo T bị bắt quả tang và thu giữ vật chứng nhưng cơ quan điều tra không cho giám định ngay mà mấy giờ sau mới mang vật chứng đi giám định. Vật chứng được niêm phong, ghi rõ không được bóc ra nhưng cơ quan điều tra đã bóc vật chứng ra, việc miêu tả vật chứng cũng không phù hợp thực tế. Người giám định vật chứng thì không có chức năng giám định là trái quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tài liệu mà Tòa án cấp sơ thẩm công bố về việc bị cáo nhập trại giam không có thương tích hay dấu vết bị đánh không có dấu bút lục, Tòa án cấp sơ thẩm thu thập tài liệu này không đúng theo quy định và có nhiều dấu hiệu đáng nghi ngờ. Tài liệu mà các cơ quan báo chí cung cấp thể hiện trước khi nhập trại giam, trên người bị cáo có nhiều thương tích và các vết bị đánh đập.
Với những sai phạm của cơ quan điều tra thì tài liệu của cơ quan điều tra trong vụ án không thể làm căn cứ để quy kết hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Viện kiểm sát để làm thủ tục điều tra lại cho đúng quy định của pháp luật.
Luật sư D tranh luận: Cơ quan điều tra tách hành vi phạm tội của Nguyễn Ngọc T2 là không đúng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bị cáo T. Cơ quan điều tra chỉ cho bị cáo và T2 đối chất một lần nhưng sau đó lại phát sinh những mảnh giấy thể hiện T2 yêu cầu gia đình bị cáo T phải chuyển cho gia đình T2 01 tỷ đồng thì T2 sẽ khai nhận sự thật về việc thuê T vận chuyển ma túy từ Hương Sơn, Hà Tĩnh ra Hà Nội. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để đưa Nguyễn Ngọc T2 tham gia tố tụng vào vụ án này, đảm bảo vụ án được giải quyết triệt để.
Luật sư H2 tranh luận: Các chứng cứ quy kết bị cáo Trần Trọng T biết hàng vận chuyển là ma túy là không có căn cứ bởi lẽ ngay từ khi bị bắt quả tang, bị cáo đã bị đánh đập, ép buộc phải nhận biết hàng vận chuyển là ma túy. Sau này, các Điều tra viên hướng dẫn bị cáo cứ viết hàng là ma túy nên bị cáo viết theo hướng dẫn của Điều tra viên. Việc ép cung bị cáo không chỉ là đánh đập để lại thương tích mà còn là các hành vi khác của Điều tra viên như quát, mắng, đe dọa, thậm chí là lườm. Việc cơ quan điều tra tiến hành đối chất giữa T2 và T thì Luật sư không được thông báo để tham dự. Có tới 09 bản cung của bị cáo là không có mặt của Luật sư tham dự và khi Luật sư vào trại tạm giam để gặp bị cáo thì cũng bị cản trở, gây khó khăn. Tuy đối chất giữa T2 và T thì T2 không thừa nhận lời khai của T nhưng cũng không thể gạt T2 ra khỏi vụ án này và suy đoán bị cáo phải biết hàng vận chuyển là ma túy. Vì vậy, cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, tránh việc kết tội oan cho bị cáo Trần Trọng T.
Căn cứ các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các Luật sư và trình bày của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Thanh Hóa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Kháng cáo của bị cáo Trần Trọng T là hợp lệ và trong hạn luật định nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Đối với việc các Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để trích xuất Nguyễn Ngọc T2 tới phiên tòa phúc thẩm để tiến hành đối chất giữa T2 và bị cáo Trần Trọng T thì thấy cơ quan điều tra đã cho T được đối chất với T2. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cũng thừa nhận đã được đối chất với T2. Do đó, đề nghị của các Luật sư bào chữa cho bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không thừa nhận biết gói hàng mà bị cáo khai do T2 thuê vận chuyển từ Hương Sơn, Hà Tĩnh ra Hà Nội là ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử minh oan cho bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, những lời khai của bị cáo và các bản tường trình của bị cáo, các tài liệu khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án và chính lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm rằng khi đến huyện Hương Sơn, làm theo lời T2 hạ kính xe để một người mang gói hàng ném vào xe. Sau đó, bị cáo mở túi kiểm tra, rạch ghế sau xe, bỏ túi hàng vào, dán băng dính để cố định gói hàng và đậy ghế lại để cất dấu. Sau đó, bị cáo bị bắt và thừa nhận các lời khai tại cơ quan điều tra thì bị cáo đều đã ký nhận là đúng. Do đó, thấy có căn cứ để xác định bị cáo Trần Trọng T có hành vi vận chuyển ma túy như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm đã truy tố và xét xử là đúng người, đúng tội, không oan.
[3] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân gây ra nhiều tội phạm khác trong xã hội. Bị cáo vận chuyển trái phép chất ma túy với số lượng 3.933,03 gam là ma túy, loại Methamphetamine. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đưa bị cáo ra xét xử theo quy định tại khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo Tử hình là có căn cứ, đúng quy định, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo không thành khẩn khai báo, thay đổi lời khai. Do đó, từ những phân tích trên thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của các Luật sư bào chữa cho bị cáo. Cần giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm như quan điểm tại phiên tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Trọng T; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 189/2021/HS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
2. Tuyên bố bị cáo Trần Trọng T phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 51; Điều 40, Điều 47; Điều 50 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Trọng T Tử hình;
Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
3. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Trần Trọng T được gửi đơn xin ân giảm án tử hình lên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Trọng T phải chịu 200.000 đồng án phí phúc thẩm.
5. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 280/2022/HSPT
Số hiệu: | 280/2022/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về