TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 05/2021/HSPT NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 174/2020/HSPT ngày 06/11/2020 đối với bị cáo Lê Văn H.
Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2020/HSST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện M.
Bị cáo có kháng cáo:
Bị cáo Lê Văn H, sinh năm 1975; tại Campuchia; Nơi cư trú: ấp A, thị trấn K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S (chết) và bà Đỗ Thị Tuyết N; có vợ là Trần Thị T và 04 con lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 2009.
Tiền sự: không.
Tiền án: ngày 08/6/2004 bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử tại Bản án số 111/HSST phạt 03 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, chưa chấp hành các quyết định khác của bản án.
Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang ngày 10/02/2020 đến ngày 14/02/2020 trả tự do và bị bắt tạm giam từ ngày 16/3/2020 đến nay và có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Thị Hồng T – Văn phòng luật sư N, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào sáng ngày 10/2/2020 bị cáo Lê Văn H đang ở nhà thuộc ấp A, thị trấn K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng thì có nhận điện thoại một người bạn tên T (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) ở tỉnh Vĩnh Long gọi kêu H lên khu vực cầu M, thuộc phường T, thành phố V để giao đồ dùm, xong việc T sẽ cho tiền tiêu xài thì H đồng ý. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày thì bị cáo H điều khiển xe mô tô biển số 83CA-013.39 đến cổng Chùa dưới dốc Cầu Mỹ Thuận để gặp T. Khi gặp T thì trên tay T có cầm một chiếc khẩu trang bằng vải có sọc xanh, trắng, đỏ nhét vào ba ga trước của xe mô tô của H, đồng thời dặn bị cáo H “Khi nào gặp Công an thì vứt khẩu trang nêu trên” và yêu cầu bị cáo H chạy xe một mình xuống địa bàn huyện M để giao đồ cho người khác, sau khi xong việc T sẽ trả cho H số tiền công 400.000 đồng và nhận tiền từ người lấy hàng từ 6.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.
Đến khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày thì H điều khiển xe mô tô biển số 83CA-013.39 đến địa bàn huyện M, khi điều khiển xe qua Cầu số 01 được một đoạn thì rẽ phải chạy vào con đường nhựa, đến cầu Bảy Trường, thuộc khu vực ấp T, xã T, huyện M thì rẽ trái chạy vào con đường đất đá. Lúc này lực lượng Công an huyện Mang Thít kết hợp Công an xã Tân Long tiến hành dừng phương tiện để kiểm tra và phát hiện tại vị trí ba ga trước của xe có 04 (bốn) bịch nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy được quấn trong khẩu trang vải sọc xanh, trắng, đỏ nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đồng thời thu giữ tang vật.
Tại Kết luận giám định số: 62/KLGĐ-PC09 ngày 11/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận như sau: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 04 (bốn) bịch nylon được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, có khối lượng 14,7052 gam, loại Methamphetamine.
Qua quá trình xác minh thì Lê Văn H có dấu hiệu bệnh tâm thần và có hồ sơ bệnh án nên Cơ quan CSĐT Công an huyện M ra Quyết định trưng cầu giám định số: 16 ngày 14/02/2020 để giám định tâm thần cho H. Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần số: 42/2020/KLGĐ ngày 12/3/2020 có của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ tại Cần Thơ kết luận như sau:
Về y học: Trước, trong, sau khi phạm tội và hiện tại: Đương sự có bệnh lý tâm thần: Chậm phát triển tâm thần nhẹ (F70-IC10).
Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần.
Tại Công văn số: 42.0/PYTT ngày 12/3/2020 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nam Bộ tại Cần Thơ trả lời về trách nhiệm hình sự đối với Lê Văn H:
Về trách nhiệm hình sự: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự có năng lực trách nhiệm hình sự.
Ngày 13/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M ra quyết định khởi tố đối với bị cáo Lê Văn H về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 250 của Bộ luật Hình sự 2015.
Trong quá trình điều tra, bị cáo H không khai báo về hành vi phạm tội như đã nêu trên. Đối với thanh niên tên Tâm đã giao ma túy cho bị cáo H giao cho người khác, cơ quan điều tra chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.
Về vật ch ng của vụ án: 04 (bốn) bịch nylon được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 14,7052 gam.
Tiền Việt Nam đồng là 11.500.000 đồng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã ch ng minh đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo không liên quan trực tiếp đến hành vi Vận chuyển trái phép chất ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã trả lại cho vợ bị cáo bà Trần Thị Tuyết.
Đối với phương tiện xe mô tô biển số 83CA-01339 nhãn hiệu Warm, màu xanh số máy P39FMB017561, số khung B014DP017561, số loại C50-1, dung tích 49, xe cũ đã qua sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M đã ch ng minh đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Trần Thị Tuyết giao cho bị cáo H sử dụng, khi thực hiện hành vi pham tội bà Tuyết không biết, nên không xử lý và đã trả cho bà Tuyết xong, hiện nay bà Tuyết không có yêu cầu khác.
Tại bản án sơ thẩm số: 36/2020/HSST ngaøy 25/9/2020 cuûa Toøa aùn nhaân daân huyện M áp dụng điểm h khoản 2 Điều 250; điểm q khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn H: 09 năm tù về tội: Vận chuyển trái phép chất ma túy.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 28/9/2020, bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn H thừa nhận có hành vi vận chuyển chất xì ke ma túy rồi bị bắt, người kêu bị cáo chở xì ke h a sẽ cho tiền xài, sau đó bị cáo không nhớ gì hết. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để trở về nhà với vợ, con.
Kiểm sát viên nêu quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích hành vi phạm tội, nguyên nhân, hậu quả mà bị cáo đã gây ra; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm. Đề nghị áp dụng điểm h khoản 2 Điều 250; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm q, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo m c án từ 07 năm đến 08 năm tù. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như quan điểm của Kiểm sát viên, đề nghị xử bị cáo mức án 07 năm tù.
Lời nói sau cùng của bị cáo là xin được về nhà.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Sau khi xét xử sơ thẩm, trong hạn luật định bị cáo Lê Văn H kháng cáo bản án sơ thẩm nên được đưa ra xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn H thừa nhận có hành vi vận chuyển chất xì ke ma túy cho người khác để người đó cho tiền xài ngoài ra bị cáo không trình bày lời khai nào, bị cáo cho là không nhớ sự việc sau đó. Trên cơ sở từ các lời khai của bị cáo tại biên bản bắt người phạm tội quả tang (bút lục số 01,02) và các biên bản ghi lời khai đối với bị cáo (tại các bút lục số 92 đến 105) thể hiện trong hồ sơ vụ án phù hợp với lời khai người làm ch ng và vật ch ng thu giữ được. Do đó có đầy đủ căn c để quy kết bị cáo Lê Văn H phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự, an ninh địa phương và là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo là người có s c khỏe để lao động có thu nhập hợp pháp nhưng do muốn có thu nhập cao, ít tốn kém công s c lao động để thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Khi thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy bị cáo vẫn nhận th c được nhà nước cấm vận chuyển với bất kỳ hình th c nào nhưng do lòng tham muốn có tiền tiêu xài cho quyền lợi cá nhân, bị cáo cố ý thực hiện tội phạm. Do đó, để đấu tranh, ngăn chặn các loại tội phạm này cần xử phạt bị cáo m c án thật nghiêm nhằm ngăn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Xét án sơ thẩm xử bị cáo tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật và cũng đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, xử bị cáo m c án 09 năm tù là không nặng, tương x ng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, không thành khẩn khai báo, chưa có thái độ ăn năn hối cải. Vì vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên án sơ thẩm.
[3] Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo là chưa có cơ sở nên không chấp nhận.
[4] Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày chưa đủ căn c để chấp nhận như đã nhận định trên.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn c điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn H. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 36/2020/HSST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện M.
Căn c điểm h khoản 2 Điều 250; điểm q khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Văn H: 09 (chín) năm tù về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/3/2020 và được trừ đi thời gian bị bắt tạm giữ từ ngày 10/02/2020 đến ngày 14/02/2020.
2/ Án phí hình sự phúc thẩm:
Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm
3/ Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 05/2021/HSPT
Số hiệu: | 05/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về