Bản án về tội trốn khỏi nơi giam, giữ số 45/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 45/2024/HS-ST NGÀY 28/05/2024 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ

Ngày 28 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2024/TLST- HS, ngày 06 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2024/QĐXXST-HS, ngày 26 tháng 4 năm 2024; và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2024, ngày 17/5/2024 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 12/6/1977; HKDKTT: Số C, phố Q, phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: Là phạm nhân đang chấp hành án tại Trại giam S1, Bộ C; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ngọc Q (Đã chết) và bà Nguyễn Thị H, Sinh năm 1956; Vợ: Phạm Ngọc Lệ T(Đã ly hôn); Con: có 01 con là Nguyễn Tiến V, sinh năm 2007; Tiền án: Ngày 17/9/2013, bị TAND huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, (Chưa được xóa án tích). Ngày 18/01/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, (Chưa được xóa án tích); Tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại giam S2, Công an thành phố H. Có mặt.

2. Bùi Mạnh V1, sinh ngày 24/02/1989; HKDKTT và chỗ ở: Số D, tập thể C, phường N, thị xã S, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Con ông Bùi Xuân H1, sinh năm 1959 và bà Vũ Thị N, sinh năm 1955; Vợ: Lê Tú Q1, sinh năm 1992(Đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền án: Ngày 23/9/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 23/5/2023 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương (Chưa được xóa án tích); Tiền sự: Không.

* Về nhân thân:

- Ngày 28/4/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn Tây (Nay là thị xã S, thành phố Hà Nội) xử phạt 09 tháng tù về tội “Làm nhục người khác”.

- Ngày 14/8/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Sơn Tây (Nay là thị xã S, thành phố Hà Nội) xử phạt 03 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt buộc V1 phải chịu hình phạt chung là 12 tháng tù.

- Ngày 04/6/2012, bị TAND huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01/02/2024 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại giam S2, Công an thành phố H. Có mặt.

3. Nguyễn Bá D,sinh ngày 17/7/1990; HKDKTT: Số C, H, phường H, quận H, thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Thôn X, xã V, huyện B, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Xuân L1, sinh năm 1962; và bà Dương Thị T1, sinh năm 1963; Vợ: Bùi Thị Phương A, sinh năm 1990; Có 03 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại giam S2, Công an thành phố H, theo Quyết định tạm giam của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, về hành vi “ Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy”. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được thể hiện như sau:

Nguyễn Ngọc L, có quen biết với Nguyễn Bá D (D là quản lý Villa Hanna ở thôn X, xã V, huyện B, thành phố Hà Nội). Ngày 18/01/2017, Nguyễn Ngọc L bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 20 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và được chuyển đến Trại giam S1 thuộc Bộ C, ở xã C, huyện B, thành phố Hà Nội để chấp hành án. Trong thời gian chấp hành án, L quen Bùi Mạnh V1 cũng đang chấp hành án tại Trại giam S1. Ngày 23/5/2023, V1 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương.

Ngày 19/9/2023, L bị đau chân nên được ban Giám thị Trại giam S1 trích xuất và áp giải đến Bệnh viện Đ (ở số C, phố L, phường L, thị xã S, thành phố Hà Nội) để khám. Sau đó, L được chỉ định nhập viện để phẫu thuật gót chân bên phải và nằm điều trị một mình tại buồng bệnh số 3, khoa Ngoại chấn thương của Bệnh viện Đ. Cán bộ Trại giam S1 quản lý L bằng cách sử dụng dây xích bằng kim loại dài 135 cm, rộng 2,2 cm (Trong đó một đầu dây xích được quấn 01 vòng quanh cổ chân bên trái của L rồi dùng ổ khóa V1 - Nhật khóa lại, một đầu dây xích còn lại được khóa vào thanh kim loại ở đuôi giường bệnh để cố định).

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 09/10/2023, L được cán bộ Trại giam S1 tháo khóa chân để bác sĩ thăm khám vết thương. Sau khi khám xong, thì cán bộ trại giam S1 trông giữ nhưng không khóa chân L lại.

Khi biết L đi điều trị tại Bệnh viện thì V1 và D thường xuyên đến thăm và mang đồ ăn cho L nên L đã nói cho V1 biết: Cán bộ trại giam S1 không canh gác, bảo vệ thường xuyên mà chỉ đi kiểm tra buồng bệnh vào 1 số khung giờ nhất định trong ngày (Buổi sáng là khoảng từ 8-9 giờ, buổi tối là khoảng 21 giờ). L cũng nói cho V1 biết là ngày 10/10/2023, L quay lại Trại giam S1 để chấp hành án và nhờ V1 đến xếp đồ dùng cá nhân cho L. V1 đồng ý và nảy sinh ý định rủ L bỏ trốn khỏi bệnh viện để đến Villa H ở thôn X, xã V, huyện B, thành phố Hà Nội nơi Nguyễn Bá D đang làm việc để chơi.

Do vậy, khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/10/2023, V1 gọi điện thoại di động cho D và nói: “Mai anh L đi rồi, tối tôi và anh L vào chỗ bạn uống bia rồi anh em mình tâm sự”. Mặc dù biết V1 sẽ cùng L trốn khỏi bệnh viện để đi đến Villa Hanna của D chơi nhưng D vẫn đồng ý. Sau đó, V1 đến Bệnh viện rủ L bỏ trốn đi đến Villa Hanna gặp D nhưng L không nói gì, nên V1 đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ 00 phút ngày 09/10/2023, khi V1 mang đồ ăn đến thì L hỏi: “T2 có vào trong nhà thằng D không?”. V1 trả lời: “Tùy anh”. L nói: “Thế vào đấy 1 lúc rồi về.” V1 đồng ý rồi đi về nhà.

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/10/2023, V1 đi đến Bệnh viện để xếp đồ cho L nhưng không thấy L trong phòng. V1 nhắn tin cho L qua Zalo là: “Anh xem ngồi khoảng 9 giờ thì về để còn phương án 2, xong hết rồi đấy”. (Tức là V1 bảo L 9 giờ sẽ đi gặp D). L nhắn tin trả lời V1 là: “OK”. Sau đó, V1 nhắn tin qua Zalo cho D là: “9 giờ bạn cho xe ra đi, ra cái đi luôn. 1 mạch đến sáng mai luôn”. D đồng ý. V1 biết khung giờ cán bộ trại giam đi kiểm tra hàng ngày nên V1 lại nhắn tin cho L là: “Bắt đầu lên xe về thì điện cho e để e căn giờ nó đi kiểm tra nhé. Cho nhanh còn đi”. L đồng ý.

Khoảng 21 giờ 10 phút cùng ngày, V1 đang gấp quần áo cho L thì thấy L cùng vợ chồng chị Nguyễn Thị Thanh X, sinh năm 1977 và anh Trần Hiệp S, sinh năm 1976, ở thôn X, xã X, thị xã S đi về buồng điều trị của L chơi khoảng 30 phút rồi vợ chồng chị X đi về. Lúc này V1 hỏi L: “Anh có được đi ra ngoài hay không”. L nói đã xin cán bộ cho ra ngoài một lúc rồi về. Mặc dù biết L nói dối nhưng V1 vẫn cùng L bỏ trốn khỏi Bệnh viện Đ để đến Villa H gặp D.

Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 09/10/2023, D nhờ Dương Văn T3, sinh năm 1996, ở thôn X, xã V, huyện B điều khiển xe ô tô đến Bệnh viện Đ đón L và V1. T3 đồng ý đi đón rồi chở L và V1 đến Villa H2 gặp D. Sau đó D, V1, L và T3 ngồi uống bia với nhau một lúc thì T3 đi đón Khoảng Thị Yến N1, sinh năm 2008, ở Bản T, xã L, thị xã M, tỉnh Điện Biên và Đào Quỳnh T4, sinh năm 2009, ở Xóm G, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình đến V. Tại đây, L cùng V1, T3, N1 và T4 sử dụng ma túy đến khoảng 02 giờ 00 phút ngày 10/10/2023 thì bị Công an huyện B, thành phố Hà Nội kiểm tra bắt giữ.

Cơ quan điều tra, Công an huyện B ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra Lệnh tạm giam đối với Nguyễn Bá D để điều tra về tội: “Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 11/10/2023, Cơ quan CSĐT, Công an huyện B bàn giao Nguyễn Ngọc L cho Trại giam S1. Sau đó, Trại giam S1 - Cục C1, Bộ C đã có công văn báo cáo đến Cơ quan CSĐT, Công an thị xã S về việc Nguyễn Ngọc L đã trốn khỏi nơi giam, giữ, vào ngày 09/10/2023.

Ngày 16/10/2023, Cơ quan CSĐT, Công an thị xã S đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 153 để điều tra về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ” theo quy định tại Điều 386 Bộ luật hình sự. Ngày 15/11/2023 và ngày 31/01/2024, Cơ quan CSĐT, Công an thị xã S đã ra Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D về tội: “Trốn khỏi nơi giam, giữ”. Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 bị Cơ quan CSĐT Công an thị xã S ra lệnh bắt tạm giam để điều tra.

Cơ quan điều tra đã thu giữ:

- 01(một) chiếc xích dây bằng kim loại dài 135 cm, rộng 2,2 cm và 01 ổ khóa Việt - Nhật là công cụ mà Trại giam S1 đã sử dụng để xích chân Nguyễn Ngọc L trong khi điều trị bệnh.

- 01(một) chiếc áo cộc tay màu trắng, 01 chiếc quần đùi ống dài, màu đen và 01 chiếc mũ lưỡi trai màu xanh là trang phục mà Nguyễn Ngọc L đã sử dụng khi bỏ trốn khỏi Bệnh viện Đ.

Quá trình điều tra đã làm rõ: Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D biết rõ L là phạm nhân chấp hành án phạt tù tại Trại giam S1 và đang được trích xuất, áp giải đến Bệnh viện Đ để điều trị bệnh nên bị hạn chế quyền tự do đi lại và chịu sự quản lý, giám sát của cán bộ trại giam. Tuy nhiên, khi biết L chuẩn bị quay về trại giam để chấp hành án thì V1 nảy sinh ý định và rủ L trốn Bệnh viện để đi đến Villa Hanna ở thôn X, xã V, huyện B gặp D để chia tay L. Mặc dù biết rõ không ai có quyền cho L đi ra khỏi Bệnh viện nhưng V1 vẫn chỉ dẫn và căn giờ bảo L về buồng điều trị để tránh sự kiểm tra của cán bộ Trại giam S1, đợi thời cơ bỏ trốn. V1 cũng điện thoại nói với D mang xe ô tô đến bệnh viện đón L và V1 để trốn vào nhà D chơi. Vì muốn gặp để chia tay L nên khi V1 nói sẽ rủ L trốn khỏi bệnh viện đi đến Villa Hanna gặp D để tổ chức ăn uống chia tay thì D đồng ý. Sau đó D nhờ T3 điều khiển xe ô tô đi đến Bệnh viện Đ đón L và V1 đưa đến chỗ của D để ăn, chơi.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT, Công an thị xã S xác định: Nguyễn Ngọc L là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam S1 - Bộ C. Ngày 19/9/2023, L được trại giam S1 trích xuất và áp giải đến Bệnh viện Đ để điều trị bệnh. Tại đây cán bộ trại giam sử dụng xích dây bằng kim loại dài 135 cm, rộng 2,2 cm (Một đầu dây xích được quấn 01 vòng quanh cổ chân bên trái của L rồi dùng ổ khóa V1 - Nhật khóa lại, một đầu dây xích được khóa vào thanh kim loại ở đuôi giường bệnh để cố định). Tuy nhiên, trong thời gian L điều trị tại bệnh viện, thì Trại giam S1 không bố trí cán bộ canh gác, bảo vệ, trông giữ đối với L thường xuyên 24/24h.

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 09/10/2023, L được cán bộ Trại giam S1 trông giữ tháo khóa chân để bác sĩ khám. Tuy nhiên, khi bác sĩ khám xong thì cán bộ được phân công trông giữ không khóa chân, tay của L theo đúng quy định. Đến khoảng 21 giờ 50 phút ngày 09/10/2023, lợi dụng sự sơ hở của cán bộ trại giam C2, bảo vệ thì L bỏ trốn khỏi Bệnh viện Đ cùng V1 để đi chơi.

Nhận thấy hành vi nêu trên có dấu hiệu của tội “Thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn” quy định tại Điều 376 Bộ luật hình sự. Do vậy, Cơ quan CSĐT, Công an thị xã S đã chuyển toàn bộ tài liệu có liên quan đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao để tiến hành điều tra theo quy định.

Đối với Dương Văn T3 là người điều khiển xe ô tô đi đón phạm nhân L và V1 đến Villa H2 gặp D rồi tiếp tục đi đón Khoảng Thị Yến N1 và Đào Quỳnh T4 đến để sử dụng ma túy. Qua xác minh hiện T3, N1, T4 không có mặt tại nơi cư trú nên chưa lấy được lời khai làm rõ hành vi của T3, N1, T4 có liên quan đến việc L bỏ trốn hay không. Do vậy, ngày 16/02/2024, Cơ quan CSĐT, Công an thị xã S đã ra quyết định tách tài liệu có liên quan đến T3, N1 và T4 ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 14/2024/CT-VKS, ngày 04/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây, Hà Nội truy tố Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ” theo Khoản 1 Điều 386 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát thị xã S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”; và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Ngọc L từ 18-21 tháng tháng tù, Tổng hợp hình phạt 20(Hai mươi) năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2016/HSST, ngày 18/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chấp hành hình phạt tù chung cho cả hai bản án. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 05/8/2016. Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt đối với Bùi Mạnh V1 từ 15-18 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 31/01/2024. Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm s; i Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt đối với Nguyễn Bá D từ 12- 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự ra Quyết định thi hành. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc xích dây bằng kim loại dài 135 cm, rộng 2,2 cm, 01 ổ khóa Việt - Nhật; 01 chiếc áo cộc tay màu trắng; 01 chiếc quần đùi ống dài, màu đen và 01 chiếc mũ lưỡi trai màu xanh, vì không còn giá trị sử dụng. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Công an thị xã S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D nhận thấy: Nguyễn Ngọc L là phạm nhân đang chấp hành án tại Trại giam S1 thuộc Bộ C. Ngày 19/9/2023, L bị đau chân nên được ban Giám thị Trại giam S1 trích xuất và áp giải đến Bệnh viện Đ nằm điều trị, đồng thời L vẫn bị quản lý giam, giữ theo quy định đối với phạm nhân. Trong thời gian L điều trị tại Bệnh viện Đ thì V1 biết nên thường xuyên đến chăm sóc cho L. L nói cho V1 biết là ngày 10/10/2023, L quay lại Trại giam S1 để chấp hành án và nhờ V1 đến xếp đồ dùng cá nhân cho L. Sau đó V1 gọi điện thoại di động cho D và nói: “Mai anh L đi rồi, tối tôi và anh L vào chỗ bạn uống bia rồi anh em mình tâm sự” D đồng ý, V1 trao đối với D khi nào V1 điện thoại thì D cho xe ra Bệnh viện đón L và V1. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 09/10/2023, L được cán bộ Trại giam S1 tháo khóa chân để bác sĩ thăm khám vết thương. Sau khi khám xong, cán bộ trại giam S1 làm nhiệm vụ quản lý giam, giữ sơ suất không khóa chân L lại. Lợi dụng sự sơ hở, buông lỏng trong công tác quản lý giam, giữ và giám sát phạm nhân của cán bộ trại giam. Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 09/10/2023, D nhờ Dương Văn T3, điều khiển xe ô tô đến Bệnh viện Đ đón L và V1 đến Villa Hanna ở thôn X, xã V, huyện B, thành phố Hà Nội nơi T3 đang làm việc để ăn chơi. Đến khoảng 02 giờ 00 phút ngày 10/10/2023 thì bị Công an huyện B, thành phố Hà Nội kiểm tra bắt giữ về hành vi tổ chức sử dụng trái phép ma túy đối với D.

Xét thấy các bị cáo Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự, V1 và D biết rõ L đang là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù, chịu sự quản lý, giám sát của trại giam, nhưng V1 vẫn rủ L bỏ trốn đến gặp D để ăn uống trước khi quay lại Trại giam S1. Hành vi của D và V1 đã giúp sức tích cực cho L bỏ trốn khỏi nơi giam, giữ. Các bị cáo nhận thức được hành vi bỏ trốn khỏi nơi giam, giữ là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức không tuân thủ pháp luật đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ giam, giữ trong công tác cải tạo phạm nhân và xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan thi hành án hình sự. Đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, nên cần xét xử nghiêm minh để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi của mình phù hợp với lời khai ở Cơ quan điều tra, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử xét có đủ cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D đã phạm tội “Trốn khỏi nơi giam giữ” quy định tại Khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Sơn Tây truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong vụ án này có đồng phạm nhưng thuộc đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên, cần phân tích, đánh giá vai trò của từng bị cáo để cá thể hóa hình phạt đối với từng bị cáo. Xét vai trò của các bị cáo thì thấy L là bị cáo đứng đầu vụ án, vì L biết hiện đang chấp hành án tại Trại giam trong thời gian điều trị tại Bệnh viện Đ vẫn phải chịu giám sát, quản lý giam, giữ theo quy định nhưng khi V1 nói đưa L vào chỗ D ở huyện B để ăn chơi L vẫn đồng ý nên L phải chịu hình phạt tù cao hơn các bị cáo V1, D.

Do bị cáo Nguyễn Ngọc L đang chấp hành án theo Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2016/HSST, ngày 18/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tại Trại giam S1 nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự về việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, buộc bị cáo L phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án theo quy định của pháp luật.

Đối với Bùi Mạnh V1 là đồng phạm giúp sức tích cực cho L trốn khỏi nơi giam, giữ như đề xuất, điện thoại rủ rẽ D cùng thực hiện hành vi phạm tội nên V1 có vai trò thứ hai trong vụ án.

Còn đối với Nguyễn Bá D là đồng phạm giúp sức và có vai trò sau V1, vì khi V1 nói đưa L trốn khỏi nơi giam, giữ đến Villa H ở thôn X, xã V, huyện B, thành phố Hà Nội nơi Nguyễn Bá D đang làm việc để ăn chơi D đồng ý và đưa xe ô tô ra Bệnh viện Đ để đón L, V1.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Ngọc L có hai tiền án chưa xóa án tích nên L phạm tội lần này là “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; bị cáo V1 có 01 tiền án chưa được xóa nên V1 phạm tội lần này là “Tái phạm” được quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. bị cáo D không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo L, V1 và D đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. Riêng bị cáo D phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; Bị cáo V1 có bố là thương binh 4/8. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, i khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên cần xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

[3]. Về xử lý vật chứng: Các vật chứng được chuyển theo hồ sơ vụ án. Xét thấy cần tịch thu tiêu hủy do không còn giá trị sử dụng theo quy định của pháp luật gồm: 01 chiếc xích dây bằng kim loại dài 135 cm, rộng 2,2 cm, 01 ổ khóa Việt Nhật, 01 chiếc áo cộc tay màu trắng, 01 chiếc quần đùi ống dài, màu đen và 01 chiếc mũ lưỡi trai màu xanh.

[4]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D phạm tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”.

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự. Xử phạt đối với Nguyễn Ngọc L 15(Mười lăm) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 20(Hai mươi) năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2016/HSST, ngày 18/01/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc L phải chấp hành hình phạt tù chung cho cả hai bản án là 21(Hai mươi mốt) năm 03(Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 05/8/2016.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm s Khoản 1và khoản 2 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Bùi Mạnh V1 12(Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/02/2024.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điểm s; i Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Bá D 09(Chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự ra Quyết định thi hành.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 chiếc xích dây bằng kim loại dài 135 cm, rộng 2,2 cm; 01 ổ khóa Việt - Nhật; 01 chiếc áo cộc tay màu trắng; 01 chiếc quần đùi ống dài, màu đen và 01 chiếc mũ lưỡi trai màu xanh. (Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/3/2024 giữa Công an thị xã S và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội).

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự các bị cáo Nguyễn Ngọc L, Bùi Mạnh V1 và Nguyễn Bá D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trốn khỏi nơi giam, giữ số 45/2024/HS-ST

Số hiệu:45/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sơn Tây - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;