TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỦA CHÙA, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ
Ngày 25 tháng 7 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2023/TLST-HS ngày 30/6/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXXST-HS ngày 12/7/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vàng A D - Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1979 tại huyện C, tỉnh Điện Biên. Nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Thôn S, xã Ch, huyện C tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không học; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vàng A T – Sinh năm 1960 và bà Thào Thị M (đã chết); Vợ Thào Thị K (đã chết); Năm 2014 sống chung như vợ chồng với Vừ Thị S – Sinh năm 1996; Bị cáo có 05 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án số 09/2011/HSST ngày 28/12/2011, bị cáo đã chấp hành xong bản án và được xóa án tích; Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc với thời hạn 24 tháng tại Quyết định số 07/2016/QĐ – TA ngày 04/7/2016, bị cáo đã chấp hành xong và được coi chưa bị xử lý vi phạm hành chính.
Tạm giữ từ ngày 20/3/2023 đến ngày 26/3/2023, tạm giữ từ ngày 28/3/2023 đến ngày 29/3/2023, tạm giam từ ngày 29/3/2023 đến nay. Bị cáo có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ ông Giàng A D – Sinh năm 1974. Nơi cư trú: Tổ dân phố N, thị trấn T, huyện C, tỉnh Điện Biên. Nơi làm việc: Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
+ anh Thào A S – Sinh năm 2003. Nơi cư trú: Thôn S, xã Ch, huyện C, tỉnh Điện Biên. Nơi làm việc: Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người tham gia tố tụng khác:
Người phiên dịch: Ông Giàng A D - Sinh năm 1985; Nơi cư trú: Tổ dân phố C, thị trấn T, huyện C, tỉnh Điện Biên. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 04 giờ sáng ngày 20/03/2023 bị cáo Vàng A D mượn xe mô tô biển kiểm soát 27T1- 004.xx của con trai là Vàng A V lên tổ dân phố Q, thị trấn T, huyện C đi tìm mua chất ma túy sử dụng, tại đây bị cáo có gặp một người đàn ông dân tộc Thái không biết tên tuổi, địa chỉ và hỏi mua được 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Khi mua được bị cáo cất giấu gói ma tuý trong túi quần phía sau bên phải đang mặc, sau đó điều khiển xe mô tô đến trường THCS - THPT xã T trả xe cho Vàng A V rồi bị cáo đi bộ đến chợ trung tâm xã T. Đến 11 giờ 40 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an huyện C phát hiện, bắt quả tang về hành vi cất giấu trái phép chất ma túy đồng thời thu giữ vật chứng.
Hồi 07 giờ 20 phút ngày 23/3/2023 do bị ốm nên Cơ quan điều tra đã trích xuất bị cáo đi khám và điều trị tại Trung tâm y tế huyện C, đến khoảng 12 giờ 10 phút ngày 26/3/2023, cán bộ quản lý giam giữ là ông Giàng A D đưa bị cáo đi vệ sinh tại nhà vệ sinh thuộc khoa lây nhiễm của Trung tâm y tế, sau đó một mình bị cáo vào trong phòng vệ sinh rồi khép cửa lại và bị cáo phát hiện cửa thông gió phía sau phòng vệ sinh không có song sắt chắn nên bị cáo đã trèo qua cửa thông gió và trèo qua bờ tường chạy ra phía đồng ruộng bỏ trốn. Sau khi phát hiện bị cáo bỏ trốn cán bộ quản lý giam, giữ đã hô hoán về việc bị cáo bỏ trốn. Cơ quan điều tra Công an huyện C đã tiến hành truy bắt bị cáo từ ngày 26/3/2023 đến 19 giờ 00 phút ngày 28/3/2023 bị cáo bị Công an huyện C bắt giữ tại thôn S, xã Ch, huyện C.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói được gói ngoài bằng mảnh nilon màu hồng bên trong có các cục chất bột màu trắng thể rắn.
Ngày 23/3/2023, Cơ quan điều tra mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, xác định vật chứng thu giữ của bị cáo: Mẫu các cục chất bột màu trắng thể rắn có khối lượng 0,3439 gam, trích 0,0896 gam làm mẫu vật gửi giám định, vật chứng còn lại 0,2543 gam.
Kết luận giám định số 529/KL - PC09 ngày 28/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ gửi giám định là ma túy: Loại Heroine - có khối lượng 0,3439 gam.
Cáo trạng số 11/CT - VKSHTC ngày 28 tháng 6 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tủa Chùa truy tố bị cáo Vàng A D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ” theo khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng khoản 1 Điều 386, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 01 năm tù về tội “ Trốn khỏi nơi giam, giữ”, áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt chung đối với bị cáo; Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại; 01 vỏ bao niêm phong cũ; 01 mảnh nilon màu hồng; Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, xét người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai trong quá trình điều tra và sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử, nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự
[2] Xét về hành vi phạm tội:
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến bắt quả tang bị cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả thu giữ vật chứng; biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng và bản kết luận giám định; phù hợp với lời khai xác nhận thời gian, địa điểm bị cáo bỏ trốn, biên bản về việc bắt giữ người bị tạm giữ bỏ trốn.
Có đủ cơ sở để kết luận, ngày 20/3/2023 bị cáo một mình vào tổ dân phố Q, thị trấn T mua được 01 gói ma túy có khối lượng 0,3439 gam trị giá 100.000đồng của một người đàn ông dân tộc Thái không quen biết, sau khi mua được bị cáo cất giấu gói ma túy trong người, mục đích bị cáo mua ma túy để sử dụng. Đến 11 giờ 40 phút cùng ngày bị tổ công tác Công an huyện C bắt quả tang.
Cũng có đủ cơ sở để kết luận, vào hồi 12 giờ 10 phút ngày 26/3/2023 đang trong thời gian trích xuất chữa bệnh tại Trung tâm y tế huyện C, trong lúc đi vệ sinh lợi dụng sơ hở của cán bộ, chiến sỹ đang quản lý, bị cáo đã đã lén lút bỏ trốn đến 19 giờ ngày 28/3/2023 thì bị cáo bị bắt giữ tại thôn S, xã Ch, huyện C.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đã cố ý mua 0,3439 gam chất ma túy loại Heroine để sử dụng, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; Hành vi trốn của bị cáo trong thời gian tạm giữ đã phạm vào tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ" theo quy định tại khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự.
Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về các tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ" là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện chất ma túy, năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, ngày 28/4/2013 bị cáo chấp hành xong hình phạt và đã được xóa án tích; Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc với thời hạn 24 tháng, ngày 08/06/2018 đã chấp hành xong quyết định áp dụng và được coi chưa bị xử lý hành chính. Tính đến ngày phạm tội bị cáo được coi là chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, HĐXX cần xem xét đến nhân thân của bị cáo khi áp dụng mức phạt.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự "thành khẩn khai báo" theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Kiểm sát viên về áp dụng tình tiết giảm nhẹ này. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo. Do đó đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt chính đối với bị cáo là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về hình phạt bổ sung:
Căn cứ vào biên bản xác minh tài sản của Cơ quan điều tra và tranh tụng tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có tài sản gì, không có việc làm và thu nhập thường xuyên, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về vấn đề khác có liên quan:
Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được họ tên, địa chỉ, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét, xử lý.
Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 27T1- 004.xx quá trình điều tra đã làm rõ tài sản hợp pháp của Vàng A V, V không biết việc bị cáo mượn và sử dụng xe vào việc phạm tội, nên Cơ quan điều tra không thu giữ xe mô tô là phù hợp.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Giàng A D, Thào A S là cán bộ, chiến sỹ làm công tác quản lý giam, giữ bị cáo không để xảy ra hậu quả gì theo quy định tại Điều 376 của Bộ luật hình sự, nên không có dấu hiệu của tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ bỏ trốn, do đó Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự là phù hợp.
[6] Về vật chứng vụ án: Đối với 0,2543 gam Heroine còn lại sau khi trích mẫu gửi giám định; 01 mảnh nilon; 01 vỏ bao niêm phong cũ là vật cấm tàng trữ và vật không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên cần miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 20121-2025; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[8] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự:
1. Tuyên bố: Bị cáo Vàng A D phạm tội: " Tàng trữ trái phép chất ma túy " và tội " Trốn khỏi nơi giam, giữ ".
2. Hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vàng A D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy".
- Áp dụng khoản 1 Điều 386, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Vàng A D 01 (một) năm tù về tội " Trốn khỏi nơi giam, giữ ".
- Áp dụng khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Khấu trừ cho bị cáo 06 (sáu) ngày tạm giữ (từ ngày 20/3/2023 đến ngày 26/3/2023). Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt chung là: 02 (hai) năm 05 (năm) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/3/2023.
3. Về vật chứng vụ án:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,2543 gam Heroine; 01 mảnh giấy nilon màu hồng; 01 vỏ bao niêm phong cũ.
Số vật chứng trên cơ quan Thi hành án dân sự huyện C đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện C.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Kháng cáo: Áp dụng khoản 1, khoản 4 Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 25/7/2023); Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án phần liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc từ ngày Bản án được niêm yết.
Bản án về tội trốn khỏi nơi giam, giữ số 25/2023/HS-ST
Số hiệu: | 25/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tủa Chùa - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về