Bản án về tội trốn khỏi nơi giam giữ số 17/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM GIỮ

Ngày 01/02/2024, tại Hội trường của Phân trại số 03- Trại giam Hoàng Tiến, Bộ Công an. Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương xét xử công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số 118/2023/TLST-HS, ngày 29 tháng 12 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HS ngày 02/01/2024, đối với bị cáo: Cao Đức T (Cao Đức P)- sinh năm 2000;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn N, xã Đ, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 08/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố đẻ Cao Đức Đ, mẹ đẻ Nguyễn Thị L.

Tiền án: Bản án số 22/2021/HSST ngày 07/4/2021 của TAND huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản và 01 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp là 10 năm tù.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 15/2018/HSST ngày 03/8/2018 của TAND quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi).

Bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại Đội 30, Phân trại số 03- Trại giam Hoàng Tiến- Bộ Công an.

Có mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng:

+ Phạm Đình T1- Cán bộ quản giáo Trại giam Hoàng Tiến.

+ Đồng Xuân Q- sinh năm 1979. Phạm nhân Trại giam Hoàng Tiến.

+ Phạm Duy V- sinh năm 1993. Phạm nhân Trại giam Hoàng Tiến.

+ Hoàng Văn L- sinh năm 1983. Phạm nhân Trại giam Hoàng Tiến.

+ Nguyễn Văn D- sinh năm 1970. Phạm nhân Trại giam Hoàng Tiến.

+ Nguyễn Văn T- sinh năm 1971. Phạm nhân Trại giam Hoàng Tiến.

+ Bế Thành L- sinh năm 1982. Phạm nhân Trại giam Hoàng Tiến.

(Đều Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cao Đức T là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại Đội 30, Phân trại số 03- Trại giam Hoàng Tiến- Bộ Công an có địa chỉ tại KDC K, phường V, thành phố Chí Linh. Sáng ngày 24/10/2023, T được dẫn giải đến xưởng lao động để lao động may túi siêu thị. Đến khoảng 07 giờ 15 phút cùng ngày thấy cán bộ quản giáo gọi một số phạm nhân (không có tên của T) bốc nguyên liệu từ trên xe ô tô đỗ ở cửa xưởng để đưa vào trong xưởng. T nảy sinh ý định trốn khỏi trại giam để về nhà nên T từ trong xưởng đi ra ngoài cửa xưởng qua phía sau xe ô tô tải rồi đi về hướng khu xưởng lao động của Đội 21, 28, 27, 23. Thấy T tự ý đi ra khỏi xưởng nên Cán bộ quản giáo đội phạm nhân số 30 là anh Phạm Đình T1 đã yêu cầu T đứng lại, quay lại xưởng làm việc nhưng T không dừng lại mà bỏ chạy về phía đường trước xưởng lao động đội 21, 28 rồi tiếp tục chạy về hướng tường rào cấm giáp xưởng lao động 23. Khi đến tường rào cấm, T trèo lên khối đất đá ở góc tường rồi trèo qua tường, lăng mình qua hàng rào thép gai ra ngoài khỏi Phân trại số 03 và tiếp tục chạy lên phía đồi giáp ranh với trại để bỏ trốn. Thấy T bỏ trốn, anh Phạm Đình T1 đã ngay lập tức thông báo bằng bộ đàm cho bộ phận chốt chặn, bảo vệ phía ngoài biết sự việc để tiến hành truy bắt T. Khoảng 05 phút sau thì T bị lực lượng bảo vệ của trại giam bắt giữ tại vị trí sườn đồi thuộc KDC K, phường V, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

Bản Cáo trạng số 15/CT-VKS-CL, ngày 10/01/2024, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương truy tố Cao Đức T về tội “Trốn khỏi nơi giam” theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Cao Đức T thành khẩn khai nhận như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, xử bị cáo mức án thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Đức T phạm tội “ Trốn khỏi nơi giam ”. Áp dụng: khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 136; Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo Cao Đức T từ 09 đến 12 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt còn phải chấp hành là 06 năm 11 tháng 07 ngày (của Bản án số 22/2021/HS-ST ngày 07/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, bị cáo đã chấp hành xong 03 năm 23 ngày). Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 Bản án là từ 07 năm 08 tháng 07 ngày đến 07 năm 11 tháng 07 ngày tù. Thời hạn tính từ ngày 01/02/2024; Về hình phạt bổ sung: không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Không; Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Chí Linh, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về sự có mặt của người tham gia tố tụng: Người làm chứng được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai nên căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt.

[3]. Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp nội dung biên bản khám xét, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07 giờ 15 phút, ngày 24/10/2023, tại xưởng lao động của Đội phạm nhân số 30 thuộc Phân trại số 03- Trại giam Hoàng Tiến, Bộ Công an đóng tại KDC K, phường V, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương, bị cáo Cao Đức T là phạm nhân đang chấp hành án phạt tù đã có hành vi bỏ trốn trèo qua hệ thống tường rào của Trại giam để ra ngoài khoảng 05 phút thì bị lực lượng Bảo vệ trại giam truy bắt được.

[4]. Hành vi của bị cáo Cao Đức T là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ sở giam giữ, đến chế độ quản lý giam giữ phạm nhân, gây tâm lý xấu đến các phạm nhân và dư luận xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được mình là phạm nhân đang chấp hành án tại cơ sở giam giữ mà trốn khỏi nơi giam giữ là vi phạm pháp luật nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trốn khỏi nơi giam giữ" theo quy định tại khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Chí Linh truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5]. Xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy rằng:

5.1. Bị cáo Cao Đức T đang chấp hành án phạt tù 10 năm của Bản án số 22/2021/HSST ngày 07/4/2021 của TAND huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng mà nay phạm tội mới nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Tái phạm" theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

5.2. Bị cáo Cao Đức T trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

5.3. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo T theo Bản án số 15/2018/HSST ngày 03/8/2018 của TAND quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi) nên đương nhiên được xóa án tích nhưng bị coi là có nhân thân xấu khi quyết định hình phạt.

[6]. Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo T khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Do bị cáo đang chấp hành án phạt tù 10 năm của Bản án số 22/2021/HSST ngày 07/4/2021 của TAND huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng từ ngày 09/12/2020 nên cần tổng hợp với hình phạt của bản án lần này để buộc bị cáo chấp hành chung hình phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

[7]. Các vấn đề khác:

- Đối với Quản giáo của Đội phạm nhân số 30, Lực lượng trinh sát, bảo vệ của Phân trại số 03- Trại giam Hoàng Tiến đã thực hiện đúng quy trình công tác, nhiệm vụ trách nhiệm của mình nên không đặt ra xử lý.

- Qua vụ án này thấy rằng Phân trại số 03 nói riêng và Trại giam Hoàng Tiến nói chung cần tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền ý thức chấp hành pháp luật đến toàn thể phạm nhân và tư tưởng chính trị của cán bộ chiến sỹ của đơn vị trong việc thực hiện quy trình công tác, nhiệm vụ trách nhiệm của mình.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 136; Điều 293; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Cao Đức T phạm tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”.

Xử phạt: Bị cáo Cao Đức T 10 (Mười) tháng tù giam. Tổng hợp với hình phạt 10 (Mười) năm tù của Bản án số 22/2021/HSST ngày 07/4/2021 của TAND huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt chung là 10 (Mười) năm 10 (Mười) tháng tù giam, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giam 09/12/2020.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Cao Đức T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trốn khỏi nơi giam giữ số 17/2024/HS-ST

Số hiệu:17/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;