TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 174/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 6 năm 2023 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 168/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2023, đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Minh H1, sinh năm 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 156 đường G D, khu phố B, phường T B, thành phố Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Bác sỹ nha khoa; trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Mạnh D, sinh năm 1958 và bà Lê Thị D, sinh năm 1963; bị cáo có 02 anh ruột, lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 1988; có vợ tên Phạm Thị Thu H, sinh năm 1995, có 01 con ruột, sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2022; có mặt.
2. Nguyễn Thành H, sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 54/13/1 khu khố Đ Th, phường T Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1969 và bà Lưu Minh H, sinh năm 1968; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2022; có mặt.
3. Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 13/3/2004 tại tỉnh Bình Thuận; thường trú: Thôn B, xã S M, huyện H T, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở: Số 86/20A đường Ng A N, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1978 và bà Trương Thị M, sinh năm 1983; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2022; có mặt.
4. Dương Quốc Kh, sinh năm 1997 tại tỉnh Tiền Giang; thường trú: Ấp B, xã T T, huyện G C Đ, tỉnh Tiền Giang; chỗ ở: Số 75 đường H D, phường L Tr, thành phố Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Dương Quốc Trở, sinh năm 1974 và bà Phạm Thị Kim Vinh, sinh năm 1976; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2022; có mặt.
5. Từ Hữu Ph, sinh năm 1987 tại tỉnh Vĩnh Phúc; thường trú: Số 116C, hẻm MS, đường L Lo Qu, tổ B, khu phố B, Phường B, thành phố T N, tỉnh Tây Ninh; chỗ ở: Số 16/6 đường số M, tổ M, khu phố B, phường L Tr, thành phố Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Từ Hữu H, sinh năm 1952 (đã chết) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1955; bị cáo có 01 chị ruột, sinh năm 1985; có vợ tên là Vũ Thị Hồng Th, sinh năm 1990, có 03 con ruột, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 20/02/2004, bị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 03 năm tù về tội Cướp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 68/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2006, đóng án phí ngày 22/6/2004; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2022; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Phạm Thị Thu H, sinh năm 1995; địa chỉ: Tổ dân phố H, thị trấn Đ P, huyện Đ P, tỉnh Gia Lai; chỗ ở: Số M, đường G D, khu phố B, phường T B, thành phố Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
2. Bà Vũ Thị Hồng Th, sinh năm 1990; địa chỉ: Số M, hẻm M, đường L L Qu, tổ B, khu phố B, Phường B, thành phố T N, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
* Người tham gia tố tụng khác:
- Người chứng kiến: Bà Đào Ngọc Qu, bà Huỳnh Thị Kim Th, bà Nguyễn Đỗ Thị H và bà Nguyễn Nguyên Bảo Ng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Minh H1, Nguyễn Ngọc L, Nguyễn Thành H, Dương Quốc Kh là bạn bè với nhau và đều là những người sử dụng trái phép ma tuý. Khoảng đầu tháng 06/2022, H1 thuê căn nhà tại địa chỉ số 86/20A đường Ng A N, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương với mục đích để cải tạo phòng trên tầng một thành phòng “bay lắc” (phòng sử dụng ma túy) để cho thuê kiếm tiền. Sau khi thuê được nhà, H1 sửa chữa căn phòng ở tầng một (làm cách âm, gắn đèn led, đèn laser, máy tạo khói, gắn loa….) để khi có khách đến chơi sẽ thu tiền bất chính. H1 giao H là người kiếm khách về cho H1, nếu có khách thì H1 sẽ trích 20% tiền thuê phòng (Giá mỗi lần thuê phòng mà H1 đặt ra là 2.000.000 đồng/4 giờ; 2.xxx.000 đồng/6 giờ, 3.000.000 đồng/8 giờ). Ngoài ra, H1 còn phân công L trông coi nhà cửa và riêng L phụ thêm phần dọn dẹp sau khi khách sử dụng phòng bay lắc xong.
Khoảng 23 giờ ngày 11/7/2022, Từ Hữu Ph và Đào Ngọc Qu, sinh năm 1992; thường trú: Số 405 T Ph, phường M, thành phố Đ L, tỉnh Lâm Đồng đi uống bia với nhau tại quán karaoke “O” địa chỉ tại khu phố B Đ 2, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Trong quá trình uống bia, Ph có rủ bảo vệ của quán là Dương Quốc Kh vào uống cùng. Tại đây, Kh trao đổi với Ph về việc đi chơi “bay lắc” tiếp (sử dụng ma túy) thì Ph đồng ý và nhờ Kh đặt cho Ph 01 (một) phòng để sử dụng ma tuý. Lúc này, do biết Nguyễn Thành H có phòng tổ chức sử dụng ma túy nên Kh mượn của Ph 01 điện thoại hiệu Iphone 13 promax, gắn sim số 076391xxx9 liên hệ với H qua điện thoại hiệu Iphone 7 plus, gắn sim số 0789621xxx để đặt phòng bay lắc cho Ph với giá thỏa thuận từ số tiền 3.000.000 đồng đến 3.xxx.000 đồng thì Hoàng đồng ý. Hoàng hướng dẫn Ph đến nhà số 86/20A đường Ng A N, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Sau đó, Hoàng có gọi vào điện thoại di động hiệu Iphone 11, gắn sim số 0936792xxx của Nguyễn Minh H1 để xin ý kiến về việc có khách đến thuê phòng bay lắc, H1 đồng ý. Đến khoảng 02 ngày 12/7/2022, Kh về nhà ngủ, còn Ph rủ Qu “đi B D chơi”, Qu đồng ý và cùng Ph đón xe grab đến địa chỉ nhà số 86/20A đường Ng A N, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương rồi H ra đón Ph và Qu vào nhà. Đến nơi, H dẫn Ph, Qu lên phòng trên lầu một, Ph kêu Hoàng gọi thêm 02 “đào” vào ngồi “dìu bay” (sử dụng ma túy), đồng thời Hoàng có hỏi Phúc về việc lấy “đồ” (ma tuý) về chơi, Phúc yêu cầu lấy “Nửa hộp 5 và 02 con kẹo” tức là nửa hộp 5 ma túy loại Ketamine và 02 con kẹo ma túy loại MDMA. Hoàng báo giá với Phúc là số tiền 3.200.000 đồng, bao gồm: 3.000.000 đồng là tiền ma túy, 200.000 đồng là tiền công cho Hoàng thì Phúc đồng ý. Sau đó, Hoàng đi xuống tầng trệt và nhờ Nguyễn Ngọc L đi mua nước đá, đồng thời kêu L nói với Nam B (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) lấy “Nửa hộp 5 ma túy loại Ketamine và 02 con kẹo” ma túy loại MDMA. L gặp Nam B nói lại yêu cầu của H thì Nam B mang 01 túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (Ketamine) và 02 viên nén (ma túy tổng hợp) đến đưa cho H, L đưa nước đá xong thì về phòng của mình trên tầng một để ngủ. Đến khoảng gần 03 giờ cùng ngày, Nguyễn Nguyên Bảo Ng, sinh năm 2004; thường trú: Số 14/4 khu phố T A, phường Đ H, thành phố D A, tỉnh Bình Dương là bạn gái của L đi sinh nhật bạn về phòng của L ngủ.
Tại phòng bay lắc gồm có Ph, H và Qu. Đến khoảng 02 giờ 15 phút cùng ngày, Ph dùng điện thoại hiệu Iphone13 promax số sim 076391xxx9 gọi vào điện thoại di động hiệu Iphone13 số sim 0937383xxx của Kh và rủ Kh đến sử dụng ma túy thì Kh đồng ý và đến phòng bay lắc cùng với Ph. Sau đó, Huỳnh Thị Kim Th, sinh năm 2001, thường trú: Thôn T L 3, xã Ph D, huyện Th N, tỉnh Ninh Thuận và Nguyễn Đỗ Thị H, sinh năm 2001; thường trú: Xã A N T, huyện Đ H, tỉnh Long An do H kêu tới “dìu bay” theo yêu cầu của Ph cũng đến. Khi sử dụng ma túy, Ph cầm 01 viên thuốc lắc (MDMA) cắn và sử dụng nửa (1/2) viên. Còn lại trên dĩa 01 viên, nửa (1/2) viên và 01 túi nylon miệng kéo dính chứa chất màu trắng. Ph tiếp tục cầm 01 viên thuốc lắc (MDMA) cắn đưa cho Kh nửa (1/2) viên và Th nửa (1/2) viên để cả hai sử dụng. H tự lấy nửa (1/2) viên còn lại sử dụng. Đối với 01 túi nylon miệng kéo dính chứa chất màu trắng, H là người hơ lửa, cà ma tuý cho mọi người trong phòng cùng sử dụng (cả nhóm đều sử dụng theo vòng, riêng Qu thì dùng tay quẹt thử đưa vào miệng nhưng do đắng nên đã vào nhà vệ sinh nhổ ra). Sau khi cả nhóm sử dụng xong ma tuý, người yêu của Kh (chưa rõ lại lịch, địa chỉ) đến và đề nghị H lấy bình khí cười qua sử dụng. H đi qua phòng của L lấy bình khí cười đem qua phòng bay lắc. Tại đây, người yêu của Kh và Th, H có sử dụng khí cười. Sau đó người yêu của Kh đi về trước còn cả nhóm còn lại thì ngủ tại phòng nêu trên. Đến khoảng 09 giờ 35 phút ngày 12/7/2022 H1 cùng vợ là Phạm Thị Thu H, sinh năm 1995; thường trú: Tổ dân phố H, thị trấn Đ P, huyện Đ P, tỉnh Gia Lai đến để chở Ng đi khám thai thì bị Đội Cảnh sát điều tra về Kinh tế - Ma tuý Công an thành phố D A phối hợp Công an phường D A, thành phố D A kiểm tra phát hiện bắt quả tang.
Quá trình kiểm tra, Lực lượng Công an phát hiện và thu giữ tang vật như sau:
- Bên trái cửa ra vào dưới sàn nhà phát hiện 01 đĩa sứ màu trắng, trên đĩa sứ có chất bột màu trắng (nghi vấn ma túy), ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng nhưng tờ tiền không còn nguyên vẹn, 01 thẻ Ngân hàng Vietcombank đã hư hỏng.
- Tại vị trí đối diện cửa ra vào trong góc tường có 01 bộ loa gồm 01 thùng loa và 02 loa nhỏ hiệu Enkor.
- Trong góc tường bên trái của phòng có 01 máy tạo khói hiệu Fogger MR-600.
- Trên tường xung quanh phòng có 03 máy chiếu tia laser đèn nhiều màu (01 máy hiệu Led HD Projector; 01 máy hiệu Laser show system; 01 máy Laser không có nhãn hiệu hình hộp màu đen).
- Trong góc tường bên trái cạnh máy tạo khói có 01 bình khí màu xanh hình trụ.
- 01 vỏ túi nylon miệng kéo dính giữa sàn nhà kích thước 4x6cm.
- 02 mắt kính đèn led kế bên bộ loa và 04 vỏ bong bóng dưới sàn nhà.
Căn cứ Kết luận giám định số: 339/MT-PC09 ngày 19/07/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, xác định: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0406 gam, loại Ketamine.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận giám định số: 339/MT-PC09 ngày 19/07/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
Đối với Phạm Thị Thu H là vợ của Nguyễn Minh H1, H được H1 nói để hàng tại căn nhà số 86/20A đường Nguyễn An Ninh, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương do H1 mới thuê (H bán hàng online) nên thỉnh thoảng H có đến căn nhà trên để lấy hàng. Do đó H không biết việc H1, H, Kh, L tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An không xử lý hình sự đối với H.
Đối với Nguyễn Nguyên Bảo Ng là bạn gái của Nguyễn Ngọc L, Ng sống ở gần nhà do Nguyễn Minh H1 thuê, thi thoảng Ng có qua ngủ cùng với L (Ng chỉ ngủ phòng của L) còn các phòng còn lại khóa cửa nên Ng không biết việc H1, H, Kh, L tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An không xử lý hình sự đối với Ng.
Đối với Đào Ngọc Qu không tham gia bàn bạc, thống nhất với Từ Hữu Ph, Dương Quốc Kh về việc tìm địa điểm để sử dụng ma túy, cũng không tham gia góp tiền mua má túy và gọi, rủ người khác đến sử dụng ma túy mà chỉ tham gia sử dụng ma túy, Công an thành phố Dĩ An ra Quyết định xử phạt hành chính số tiền 1.xxx.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1, Điều 23 nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; phòng chống bạo lực gia đình.
Tại cáo trạng số: 91/CT – VKS-DA ngày 19 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Minh H1, Nguyễn Ngọc L, Dương Quốc Kh và Từ Hữu Ph về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Nguyễn Thành H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 và điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H1 với mức hình phạt từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Dương Quốc Kh, Từ Hữu Ph với mức hình phạt từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L với mức hình phạt từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và xử phạt từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt chung của 02 tội danh từ 08 năm 03 tháng đến 10 năm tù.
* Về xử lý vật chứng:
- Đối với số ma túy còn lại sau giám định là 0,0051 gam, loại Ketamine được niêm phong trong một bì thư của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương có ghi số vụ 339/PC09, là vật cấm lưu thông nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng nhưng tờ tiền không còn nguyên vẹn; 01 (một) thẻ Ngân hàng Vietcombank đã hư hỏng; 01 (một) bộ loa gồm 01 thùng loa và 02 loa nhỏ hiệu Enkor; 01 (một) máy tạo khói hiệu Fogger MR-600; 03 (ba) máy chiếu tia laser đèn nhiều màu (01 máy hiệu Led HD Projector; 01 máy hiệu Laser show system; 01 máy Laser không có nhãn hiệu hình hộp màu đen); 01 (một) bình khí màu xanh hình trụ; 01 (một) vỏ túi nylon miệng kéo dính kích thước 4x6cm; 02 mắt kính đèn led; 04 vỏ bong bóng (màu trắng đục); 04 (bốn) lon nước Cocacola; 03 (ba) bịch bánh snack khoai tây; 01 (một) quạt đứng hiệu Toshiba thu giữ trong vụ án, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus số sim 0789621xxx thu giữ của Nguyễn Thành H, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone13 số sim 0937383xxx thu giữ của Dương Quốc Kh, do các bị cáo sử dụng vào việc “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 02 điện thoại và tịch thu tiêu huỷ 02 sim số 0789621xxx; 0937383xxx.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 promax số sim 076391xxx9 thu giữ của Từ Hữu Ph; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 số sim 0936792xxx thu giữ của Nguyễn Minh H1, quá trình điều tra xác định 02 điện thoại trên mua trong thời kỳ hôn nhân của bị cáo H1 và vợ tên Phạm Thị Thu H, bị cáo Ph và vợ tên Vũ Thị Hồng Th. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã định giá tài sản theo quy định. Do Ph và H sử dụng vào việc “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên đề nghị tịch thu ½ giá trị của 02 điện thoại để sung vào ngân sách Nhà nước và trả ½ giá trị điện thoại cho chị H và Th; tịch thu tiêu huỷ 02 sim số 076391xxx9; 0936792xxx.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 không gắn sim của thu giữ của bị cáo Nguyễn Ngọc L, do L không sử dụng vào việc “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại cho bị cáo L.
Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử lý vật chứng đồng thời trong lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo:
Nguyễn Minh H1 là người thuê căn nhà tại địa chỉ số 86/20A đường Ng A N, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương rồi sửa chữa phòng trên tầng một thành phòng “bay lắc” (phòng sử dụng ma túy) để cho thuê kiếm tiền. Đồng thời, H1 phân công Nguyễn Ngọc L trông coi nhà cửa và dọn dẹp, phân công Nguyễn Thành H tìm khách hàng và chi tiền hoa hồng cho H, H1 giao chìa khoá phòng cho Ho quản lý. Ngày 12/7/2022, H gọi điện thoại thông báo có khách thuê phòng để sử dụng ma túy thì H1 đồng ý.
Nguyễn Thành H có hành vi tìm khách cho Nguyễn Minh H1 và được chia xxx.000 đồng/1 lượt khách. Ngày 12/7/2022, H gọi điện thoại thông báo có khách thuê phòng để sử dụng ma túy, H thoả thuận giá thuê phòng và chỉ dẫn Từ Hữu Ph đến nhà tại địa chỉ số 86/20A đường Ng A N, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Đồng thời, H thỏa thuận giá mua bán ma túy với Từ Hữu Ph là 3.200.000 đồng, bao gồm 3.000.000 đồng ma túy và hưởng lợi 200.000 đồng, H là người trực tiếp liên hệ với Nam B (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đem ma túy đến và kêu Nam B điều đào đến theo yêu cầu của Ph. H là người chia phần ma túy trong túi nilon miệng kéo dính chuyền tay cho cả nhóm sử dụng trong phòng bay lắc.
Nguyễn Ngọc L có hành vi giúp sức tích cực cho Nguyễn Minh H1, Nguyễn Thành H trong việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy với nhiệm vụ là trông coi nhà, dọn dẹp sau khi khách sử dụng ma tuý. Ngày 12/7/2022, L hỗ trợ dọn dẹp phòng, mua nước và liên hệ đối tượng Nam B để lấy ma túy cho H, cung cấp cho nhiều người sử dụng.
Dương Quốc Kh biết rõ Nguyễn Thành H có phòng để tổ chức sử dụng ma túy cho thuê, Kh đã chỉ điểm móc nối Từ Hữu Ph cho H để H cung cấp địa điểm, ma túy cho Ph và những người khác cùng sử dụng ma túy. Kh hưởng lợi là việc Ph cho Kh sử dụng ma túy mà không lấy tiền.
Từ Hữu Ph là người bàn bạc với Dương Quốc Kh, Phúc đề nghị Kh tìm phòng và thoả thuận giá với Nguyễn Thành H. Sau đó, Ph rủ Qu, Kh và yêu cầu H gọi cho Th, H đến để cùng sử dụng ma túy. Đồng thời, Ph là người yêu cầu H đặt mua ma túy, cung cấp, đưa ma túy cho nhiều người sử dụng.
Hành vi trên đây của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và hành vi của bị cáo Nguyễn Thành H thỏa thuận mua bán ma túy để hưởng lợi số tiền 200.000 đồng, đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 91/CT-VKS ngày 19 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy gây mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tổ chức để sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì để có ma túy sử dụng, có tiền sử dụng ma túy, mục đích tư lợi của bản thân mà các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[4] Trong vụ án “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Nguyễn Ngọc H1 có cha là ông Nguyễn Mạnh D được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, Huân chương chiến công hạng ba và bị cáo Từ Hữu Ph có cha là ông Từ Hữu H là thương binh 2/4; bị cáo Dương Quốc Kh là quân nhân xuất ngũ, có hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo Nguyễn Thành H có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[7] Về nhân thân: Các bị cáo Nguyễn Minh H1, Nguyễn Thành H, Nguyễn Ngọc L, Dương Quốc Kh là người chưa có tiền án; bị cáo Từ Hữu Ph có 01 tiền án đã được xóa nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.
[8] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, các bị cáo là người sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời hành vi phạm tội của các bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại tại khoản 5 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến xxx.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm lưu trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục các bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng:
- Xét số ma túy còn lại sau giám định là 0,0051 gam, loại Ketamine được niêm phong trong một bì thư của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương có ghi số vụ 339/PC09, là vật cấm lưu thông nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Xét 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng nhưng tờ tiền không còn nguyên vẹn; 01 (một) thẻ Ngân hàng Vietcombank đã hư hỏng; 01 (một) bình khí màu xanh hình trụ; 01 (một) vỏ túi nylon miệng kéo dính kích thước 4x6cm; 02 mắt kính đèn led; 04 vỏ bong bóng (màu trắng đục); 04 (bốn) lon nước Cocacola; 03 (ba) bịch bánh snack khoai tây, thu giữ trong vụ án, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Xét 01 (một) bộ loa gồm 01 thùng loa và 02 loa nhỏ hiệu Enkor; 01 (một) máy tạo khói hiệu Fogger MR-600; 03 (ba) máy chiếu tia laser đèn nhiều màu (01 máy hiệu Led HD Projector; 01 máy hiệu Laser show system; 01 máy Laser không có nhãn hiệu hình hộp màu đen; 01 (một) quạt đứng hiệu Toshiba thu giữ trong vụ án, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus số sim 0789621xxx thu giữ của Nguyễn Thành H, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone13 số sim 0937383xxx thu giữ của Dương Quốc Kh, do các bị cáo sử dụng vào việc “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 02 điện thoại và tịch thu tiêu huỷ 02 sim số 0789621xxx; 0937383xxx.
- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 promax số sim 076391xxx9 thu giữ của Từ Hữu Ph; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 số sim 0936792xxx thu giữ của Nguyễn Minh H1, quá trình điều tra xác định 02 điện thoại trên mua trong thời kỳ hôn nhân của bị cáo Hải và vợ tên Phạm Thị Thu H, bị cáo Ph và vợ tên Vũ Thị Hồng Th. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã định giá tài sản theo quy định. Do Phúc và H sử dụng vào việc “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên đề nghị tịch thu ½ giá trị của 02 điện thoại để sung vào ngân sách Nhà nước và trả ½ giá trị điện thoại cho chị H và Th; tịch thu tiêu huỷ 02 sim số 076391xxx9; 0936792xxx.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 không gắn sim của thu giữ của bị cáo Nguyễn Ngọc L, do bị cáo L không sử dụng vào việc “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại cho bị cáo L, là đúng theo quy định.
[10] Đối với Phạm Thị Thu H là vợ của Nguyễn Minh H1, H được H1 nói để hàng tại căn nhà số 86/20A đường Ng A N, khu phố Nh Đ 2, phường D A, thành phố D A, tỉnh Bình Dương do H1 mới thuê (H bán hàng online) nên thỉnh thoảng H có đến căn nhà trên để lấy hàng. Do đó H không biết việc H1, H, Kh, L tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A không xử lý hình sự đối với H; đối với Nguyễn Nguyên Bảo Ng là bạn gái của Nguyễn Ngọc L, Ng sống ở gần nhà do Nguyễn Minh H1 thuê, thi thoảng Ng có qua ngủ cùng với L (Ng chỉ ngủ phòng của L) còn các phòng còn lại khóa cửa nên Ng không biết việc H1, H, Kh, L tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A không xử lý hình sự đối với Ng và đối với Đào Ngọc Qu không tham gia bàn bạc, thống nhất với Từ Hữu Ph, Dương Quốc Kh về việc tìm địa điểm để sử dụng ma túy, cũng không tham gia góp tiền mua má túy và gọi, rủ người khác đến sử dụng ma túy mà chỉ tham gia sử dụng ma túy, Công an thành phố D A ra Quyết định xử phạt hành chính số tiền 1.xxx.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1, Điều 23 nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; phòng chống bạo lực gia đình, là đúng theo quy định của pháp luật.
[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Minh H1, Nguyễn Ngọc L, Dương Quốc Kh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và xử lý một phần vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Còn mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thành H, xét tính chất, mức độ cũng như vai trò của bị cáo trong vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt nặng hơn Viện kiểm sát đề nghị.
[12] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh H1, Nguyễn Ngọc L, Dương Quốc Kh và Từ Hữu Ph phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo Nguyễn Thành H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
1.1 Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/7/2022.
1.2 Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Dương Quốc Kh 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/7/2022.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/7/2022.
- Xử phạt bị cáo Từ Hữu Ph 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/7/2022.
1.3 Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
1.3.1 Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”
1.3.2 Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tổng hợp hình phạt cả 02 tội, buộc bị cáo Nguyễn Thành H phải chấp hành hình phạt chung là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/7/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus, 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone13.
- Tịch thu vào Ngân sách ½ giá trị 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 promax và trả lại ½ giá trị 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 promax chị Phạm Thị Thu H.
- Tịch thu vào Ngân sách ½ giá trị 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 và trả lại ½ giá trị 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 cho chị Vũ Thị Hồng Th.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong ghi số vụ 339/PC09 có ma túy còn lại sau giám định 0,0051 gam, loại Ketamine; 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) ống hút bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng nhưng tờ tiền không còn nguyên vẹn; 01 (một) thẻ Ngân hàng Vietcombank đã hư hỏng; 01 (một) bình khí màu xanh hình trụ; 01 (một) vỏ túi nylon miệng kéo dính kích thước 4x6cm; 02 mắt kính đèn led; 04 vỏ bong bóng (màu trắng đục); 04 (bốn) lon nước Cocacola; 03 (ba) bịch bánh snack khoai tây; các sim số 0789621xxx; 0937383xxx; 0763919xxx; 0936792xxx.
- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) bộ loa gồm 01 thùng loa và 02 loa nhỏ hiệu Enkor; 01 (một) máy tạo khói hiệu Fogger MR-600; 03 (ba) máy chiếu tia laser đèn nhiều màu (01 máy hiệu Led HD Projector; 01 máy hiệu Laser show system; 01 máy Laser không có nhãn hiệu hình hộp màu đen; 01 (một) quạt đứng hiệu Toshiba.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/02/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Các bị cáo Nguyễn Minh H1, Nguyễn Thành H, Nguyễn Ngọc L, Dương Quốc Kh và Từ Hữu Ph, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án tống đạt hợp lệ./.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và mua bán trái phép chất ma túy số 174/2023/HS-ST
Số hiệu: | 174/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về