TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ - TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 242/2024/HS-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 256/2024/HSST ngày 30 tháng 7 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 254/2024/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Lò Văn Th, sinh năm 1996, tại Sông M, Sơn La.
Nơi cư trú: Bản Lọng X, xã Chiềng E, huyện Sông M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn K và bà Lường Thị Ng; bị cáo có vợ là Lò Thị D và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/4/2024 cho đến nay; có mặt.
2. Sồng A N, sinh năm 1979, tại Sông Mã, Sơn La.
Nơi cư trú: Bản Nà B, xã Chiềng E, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sồng Chứ D và bà Chá Thị C (đều đã chết); bị cáo có vợ là Thào Thị M và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/4/2024 cho đến nay; có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn Th, sinh năm 1992; nơi cư trú: Bản Hua P, xã Chiềng E, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 30 phút ngày 19/4/2024 Tổ công tác Công an xã Chiềng E, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ phòng chống ma túy tại bản Hua Lưng, xã Chiềng E, huyện Sông Mã phát hiện một xe mô tô hướng từ xã Đứa Mòn về bản Hua Lưng, xã Chiềng E có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Khi dừng lại đối tượng điều khiển xe mô tô khai nhận tên Lò Văn Th, sinh năm 1996, trú tại bản Lọng X và người ngồi sau tên là Sồng A N, sinh năm 1979, trú tại bản nà B cùng xã Chiềng E, huyện Sông Mã. Qua làm việc, vận động Th đã tự lấy trọng túi ra một gói nilon màu trắng và N lấy từ trong túi quần ra một gói nilon màu trắng để giao nộp cho tổ công tác, qua kiểm tra bên trong hai gói nilon màu trắng đều chứa chất bột liên kết màu trắng (Th và N khai nhận là Heroine). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, sau đó đưa các đối tượng cùng vật chứng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại RSX, biểm kiểm soát 29S1-X về UBND xã Chiềng E, huyện Sông Mã để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định.
Ngày 22/4/2024 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, Hội đồng Bc mở niêm phong đã tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng và trích mẫu giám định, kết quả: Số chất bột màu trắng trong túi nilon thứ nhất có khối lượng là 0,160 gam; số chất bột màu trắng trong túi nilon thứ hai có khối lượng là 0,109 gam, đã sử dụng toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký hiệu T1, T2.
Tại Kết luận giám định số 952/KL ngày 24/4/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:
- Mẫu ký hiệu T1, T2 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất; khối lượng của mẫu gửi giám định là T1= 0,160 gam; T2=0,109 gam.
- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,269 gam, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất.
Quá trình điều tra các bị cáo Lò Văn Th và Sồng A N khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 19/4/2024 Th đem theo số tiền 100.000 đồng (là tiền do Th lao động tiết kiệm mà có) rồi điều khiển xe mô tô từ nhà ở bản Lọng X đến bản Nà B, xã Chiềng E chơi. Khi đến bản Nà B, Th vào nhà của N chơi, đồng thời rủ N cùng đi tìm mua ma túy về sử dụng thì N đồng ý. Sau đó, Th điều khiển xe mô tô chở N đi từ nhà Nà B, xã Chiềng E đến bản Nộc Cốc, xã Đứa Mòn, huyện Sông Mã để tìm mua ma túy. Khi đến đầu bản Nộc Cốc, Th dừng xe rồi đưa cho N số tiền 100.000 đồng để N vào trong bản tìm mua ma túy, N nhận lấy số tiền rồi đi bộ vào trong bản, trên đường vào bản N gặp một người đàn ông dân tộc Thái không rõ danh tính, N hỏi mua được một ít Heroine gói bằng mảnh nilon màu trắng với số tiền 100.000 đồng. Mua được ma túy, N đem về chỗ Th đang chờ, sau đó Th bảo N chia số Heroine mua được thành hai phần nên N mở gói Heroine mua được chia thành hai phần rồi gói lại bằng các mảnh nilon màu trắng. Th cầm một gói và N cầm một gói để đem về sử dụng. Khi Th điều khiển xe mô tô chở N về đến bản Hua Lưng, xã Chiềng E thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng E, huyện Sông Mã đang làm nhiệm vụ, kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Cáo trạng số 198/CT-VKSSM ngày 29 tháng 7 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo: Lò Văn Th từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 10 tháng tù.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo: Sồng A N từ 01 năm 05 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.
Đề nghị HĐXX miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị HĐXX:
- Tịch thu để tiêu hủy: 02 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã Bc mở;
- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn Th 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, biển kiểm soát 29S1-053.60.
Về án phí: Đề nghị miễn án phí cho các bị cáo.
Các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, khi được nói lời sau cùng, các bị cáo đều xin được giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn Th đề nghị xin được trả lại chiếc xe mô tô.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, ý kiến của người liên quan, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày ngày 19/4/2024 các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N có hành vi tàng trữ 0,269 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.
Tại phiên toà các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; phát biểu luận tội của của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị mức xử phạt tù giam đối với các bị cáo về tội danh nêu trên là phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mà các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N thực hiện đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
[3] Về tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.
[4] Về vai trò của các bị cáo: Bị cáo Lò Văn Th giữ vai chính, trực tiếp bỏ tiền rủ bị cáo Sồng A N cùng đi tìm mua ma túy về sử dụng; bị cáo Sồng A N là người giúp sức tích cực trong việc tìm mua ma tuý để cùng nhau sử dụng.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Sồng A N có bố đẻ là ông Sồng Chứ D được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng Ba nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo; khối lượng ma túy các bị cáo cất giấu nhằm mục đích sử dung; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của các bị cáo, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam đối với các bị cáo và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội cũng như công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[7] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy các bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[8] Về các vấn đề liên quan: Đối với người đàn ông dân tộc Thái, không rõ tên, địa chỉ là người đã bán ma tuý cho các bị cáo tại bản Nộc Cốc, xã Đứa Mòn, Sông Mã ngày 19/4/2024. Do không xác định được họ tên đầy đủ và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[9] Về vật chứng của vụ án:
- Đối với 02 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã Bc mở là vật không có giá trị sử dung, nên cần tịch thu để tiêu hủy.
- Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, biển kiểm soát 29S1-053.60, xe đăng ký mang tên Nguyễn Thị V do anh Lò Văn Th (anh rể của Th) mua lại nhưng không làm thủ tục sang tên. Ngày 19/4/2024 Th mượn xe đi công việc, sau đó điều khiển xe chở Nênh đi mua ma túy thì anh Th không biết. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn Th đề nghị xin được trả lại chiếc xe mô tô, nên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận và trả lại cho anh Th chiếc xe mô tô nêu trên.
[10] Về án phí: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Tuyên bố các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Lò Văn Th 01 (một) năm 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/4/2024.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Sồng A N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/4/2024.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu để tiêu hủy 02 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã Bc mở (các vật chứng được đựng trong một phong bì thư do Bưu điện Việt Nam phát hành được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 0019381).
- Trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn Th 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX, màu đỏ-đen-bạc, biển kiểm soát 29S1-X, số khung: 230660, số máy: 6160564.
Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 182/QĐ-VKS ngày 23/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 08 giờ 00 phút ngày 01 tháng 8 năm 2024 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Các bị cáo Lò Văn Th, Sồng A N được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 12/9/2024)./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 242/2024/HS-ST
Số hiệu: | 242/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về