Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 238/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 238/2024/HS-ST NGÀY 26/09/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 227/2024/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2024; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 239/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hoàng Bùi H (tên gọi khác: không), sinh ngày 24 tháng 02 năm 1995; tại thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; nơi thường trú: khu H, phường Đ, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh; chỗ ở: tổ I, khu B, phường G, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; đoàn thể: không; trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh;

giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn T (đã chết) và bà Phạm Thị H1; vợ: Đỗ Thị Đ; con: có 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/6/2024, bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2024; hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q; có mặt.

2. Họ và tên: Hoàng Văn K (tên gọi khác: không), sinh ngày 11 tháng 7 năm 1996; tại tỉnh Quảng Ninh; nơi thường trú: tổ I, khu Đ, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; chỗ ở: tổ I, khu B, phường G, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; đoàn thể: không; trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn C và bà Lương Thị T1; vợ, con: không có; tiền án: ngày 06/12/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 18 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 15/12/2023 chấp hành xong bản án; tiền sự: không; nhân thân: ngày 04/5/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 20 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 05/7/2019 chấp hành xong bản án; bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/6/2024, bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2024;

hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Vũ Như T2, sinh năm 1970; nơi cư trú: tổ B, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Người chứng kiến: Lê Minh H2, Chu Văn N; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Bùi H và Hoàng Văn K đều là người sử dụng ma túy đá và cùng thuê trọ tại tổ I, khu B, phường G, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 19/6/2024, H nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên nói với K “Có làm tí về chơi không”, hiểu ý H rủ sử dụng ma túy nhưng do hết tiền nên K nói “Em đang hết tiền rồi”, thì H nói “Anh có đây, lúc nào có góp với anh sau”. H và K cùng thống nhất cùng nhau đi mua 1.500.000 đồng tiền ma túy đá về sử dụng, H chi tiền mua ma túy trước, còn K trả tiền sau cho H. Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 14P-X (mượn của anh Vũ Như T2) chở K từ phòng trọ đoạn đường qua ngã 3 K 11 thuộc thị xã Q tìm mua ma túy. Tại đây, H và K nhìn thấy 01 người đàn ông có dáng vẻ giống người sử dụng ma túy, H đi bộ đến hỏi mua được 01 túi ma túy đá giá 1.500.000 đồng. Người đàn ông đưa cho H túi ma túy bọc bên ngoài bằng băng dính màu đỏ dán trên vỏ chai nhựa màu trắng có vỏ nilon ghi chữ “Nước khoáng thiên nhiên Quang Hanh” loại 500ml. Sau khi mua được ma túy, H đưa K cầm rồi cả hai tìm nơi sử dụng. Khoảng 22 giờ 40 phút cùng ngày, H và K đi đến đoạn đường dân sinh thuộc tổ I, khu B, phường G, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ tại tay phải của K cầm 01 vỏ chai nhựa màu trắng có vỏ nilon ghi chữ “Nước khoáng thiên nhiên Quang Hanh” loại 500ml, phía dưới lớp vỏ nilon có 01 túi nilon chứa ma túy được dán băng dính màu đỏ bên ngoài; thu giữ của K 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen gắn sim số 0966.X.002; thu giữ của H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh gắn sim số 0336.335.X và 01 xe mô tô biển kiểm soát: 14P3-X.

Tại Kết luận giám định số 961/KLGĐ-KTHS ngày 25/6/2024 của Phòng K1 Công an tỉnh Q kết luận: chất tinh thể màu trắng trong 01 túi nilon kích thước (1,5x2)cm, trong phong bì niêm phong bên ngoài ghi: vật chứng thu giữ của Hoàng Văn K và Hoàng Bùi H ngày 19/6/2024 gửi giám định là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng: 0,195 (không phẩy một chín năm) gam.

Quá trình điều tra, Hoàng Bùi H và Hoàng Văn K khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Ngoài ra, H khai H hỏi mượn chiếc xe mô tô 14P3-X của anh T2 để đi công việc cá nhân, anh T2 không biết việc H sử dụng xe đi mua ma túy để sử dụng.

Vật chứng, tài sản trong vụ án: số ma túy hoàn lại sau giám định, 01 chai nhựa có nắp màu trắng, trên thân chai có dán chữ “Nước khoáng thiên nhiên Quang Hanh”; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen gắn sim số 0966.X.002 thu giữ của Hoàng Văn K; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh gắn sim số 0336.335.X thu giữ của Hoàng Bùi H; 01 xe mô tô biển kiểm soát 14P3-X, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H để quản lý theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số: 4275/CT-VKSHL, ngày 11 tháng 9 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh truy tố Hoàng Bùi H và Hoàng Văn K, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Bùi H, Hoàng Văn K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án nêu trên.

Phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt chính:

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Hoàng Bùi H từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2024.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Hoàng Văn K từ 18 (mười tám) đến 21 (hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2024.

- Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,15 (không phẩy một năm) gam ma túy, loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì còn nguyên niêm phong số 961/KL-KTHS ngày 25/6/2024 của Phòng K1 Công an tỉnh Q; 01 vỏ chai nhựa màu trắng, có vỏ nilon ghi chữ “Nước khoáng thiên nhiên Quang Hanh” loại 500ml;

Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn K 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen, kèm 01 sim; trả lại cho bị cáo Hoàng Bùi H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh than, kèm 01 sim.

Trả lại cho anh Vũ Như T2: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu sơn xanh đen, biển kiểm soát 14P3-X, số khung: 09006Y239345; số máy: C09E- 6239359 Các bị cáo không tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

* Các bị cáo nói lời nói sau cùng: xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành Hạ Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: xét lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, Biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng thu giữ, bản ảnh vật chứng, Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: 21 giờ 30 phút ngày 19/6/2024, tại đoạn đường thuộc tổ I, khu B, phường G, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, Hoàng Bùi H và Hoàng Văn K có hành vi tàng trữ trái phép 0,195 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an thành phố H bắt quả tang, thu giữ ma túy.

Các bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm phạm đến chế độ của Nhà nước về quản lý các chất ma túy.

Do đó, hành vi như nêu trên của Hoàng Bùi H và Hoàng Văn K đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: đây là vụ án đồng phạm giản đơn, về cơ bản hai bị cáo có vai trò ngang nhau.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Đối với bị cáo Hoàng Bùi H: không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với bị cáo Hoàng Văn K: ngày 06/12/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 18 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 15/12/2023 chấp hành xong bản án. Tính đến ngày thực hiện hành vi phạm tội (ngày 19/6/2024), bị cáo chưa được xóa án tích. Do đó, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, về nhân thân: ngày 04/5/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xử phạt 20 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 05/7/2019 chấp hành xong bản án. Do đó, Hội đồng xét xử cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo K.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt chính: căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Hoàng Bùi H và Hoàng Văn K. Do hai bị cáo có vai trò ngang nhau nên mức hình phạt áp dụng đối với hai bị cáo là như nhau. Tuy nhiên, do bị cáo K bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm”, nên mức hình phạt áp dụng với bị cáo K sẽ cao hơn mức hình phạt áp dụng với bị cáo H.

[7] Về hình phạt bổ sung: tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo nghiện ma túy, không có công việc và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,15 (không phẩy một năm) gam ma túy, loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì còn nguyên niêm phong số 961/KL- KTHS ngày 25/6/2024 của Phòng K1 Công an tỉnh Q là vật nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và 01 vỏ chai nhựa màu trắng, có vỏ nilon ghi chữ “Nước khoáng thiên nhiên Quang Hanh” loại 500ml là vật không còn giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen, kèm 01 sim thu giữ của Hoàng Văn K và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh than, kèm 01 sim thu giữ của Hoàng Bùi H, các bị cáo đều không sử dụng điện thoại vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần trả lại cho các bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu sơn xanh đen, biển kiểm soát 14P3-X, số khung: 09006Y239345; số máy: C09E-6239359 thuộc quyền sở hữu của anh Vũ Như T2. Khi H mượn xe, H không nói cho anh T2 biết việc H sử dụng xe đi mua ma túy về sử dụng. Nên, căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần trả lại cho anh T2 chiếc xe mô tô.

[9] Về lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát: xét những chứng cứ mà Kiểm sát viên dùng để chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo đã được cơ quan điều tra thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định; tại phiên tòa các bị cáo cũng đã thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội như bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Nên lời buộc tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với các bị cáo là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Hoàng Bùi H, Hoàng Văn K phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Hoàng Bùi H và Hoàng Văn K, quá trình điều tra không xác minh làm rõ được, nên không có căn cứ xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: H (mười lăm) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ: 19/6/2024.

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Hoàng Văn K 18 (mười tám) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ: 19/6/2024.

2. Về xử lý vật chứng: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,15 (không phẩy một năm) gam ma túy, loại Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì còn nguyên niêm phong số 961/KL-KTHS ngày 25/6/2024 của Phòng K1 Công an tỉnh Q; 01 vỏ chai nhựa màu trắng, có vỏ nilon ghi chữ “Nước khoáng thiên nhiên Quang Hanh” loại 500ml;

Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn K: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu đen, kèm 01 (một) sim; trả lại cho bị cáo Hoàng Bùi H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi màu xanh than, kèm 01 (một) sim.

Trả lại anh Vũ Như T2: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu sơn xanh đen, biển kiểm soát 14P3-X, số khung: 09006Y239345; số máy: C09E- 6239359.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 282/BB-THA ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long).

3. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hoàng Bùi H, Hoàng Văn K mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: căn cứ khoản 1, 4 Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: bị cáo Hoàng Bùi H, Hoàng Văn K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể tư ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 238/2024/HS-ST

Số hiệu:238/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;