TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 152/2021/HSST NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 152/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 8năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Phạm V A; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 08/01/1985 tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Số nhà 1040, tổ dân phố 2, phường M T, thành phố Đ B P, tỉnh Đ;Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12 phổ thông; Con ông: Phạm Ng L và con bà: Phạm Thị O; Vợ, con: Không; Tiền án, tiền sự: Không;
Đặc điểm nhân thân: Ngày 12/5/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đưa ra xét xử 03 năm tù về tội Cướp giật tài sản, đến ngày 18/9/2011 A chấp hành xong toàn bộ bản án. Ngày 27/9/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đưa ra xét xử 42 tháng tù, về tội Cướp giật tài sản đến tháng 05/8/2015 chấp hành xong toàn bộ bản án.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/6/2021sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
2. Họ và tên: Vương A T; Tên gọi khác: Không; sinh ngày16/11/1976 tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Số nhà 205, tổ dân phố 3, phường M T, thành phố Đ B P, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp:Lao động tự do;
Trình độ văn hóa: 11/12 phổ thông; Con ông: Vương T D – (đã chết)và con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1947; Vợ: Lê Thị T, sinh năm 1984; có hai con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 24/6/2021 sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 23 tháng 6 năm 2021, Vương A T gọi điện thoại cho Phạm V A, biết Aở nhà. Tuấn điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 22 B1-379.79 chở máy hàn đến nhà Phạm V A ở tổ 03, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ để trả. Trả xong, Tuấn rủ Ađi mua ma túy đem về nhà A cùng sử dụng. Anói không có tiền, Tuấn bảo có 100.000 đồng, Ađồng ý. Tuấn cho A xuống bản Xôm, xã Thanh An, huyện Điện Biên, đưa cho A100.000 đồng bảo Ađi mua hồng phiến, Tuấn ngồi ở xe đợi. Ađi vào trong ngõ gặp một người thanh niên tên Thành ở ven đường đặt vấn để mua hồng phiến và đưa cho Thành 100.000 đồng. Axin mua nợ thêm 100.000 đồng, Thành đồng ý và đi vào trong bản khoảng 10 phút thì quay lại đưa cho A01 gói nilon màu đen bên trong có 07 viên hồng phiến. A cầm gói ma túy ra chỗ Tuần đứng đợi nói đã mua được ma túy nhưng không nói cho Tuấn biết Atự ý mua nợ thêm 100.000 đồng. Tuấn trở Avề, khi đi đến trước cổng nghĩa trang A1, thuộc tổ dân phố 15, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, Tuấn dừng xe vào mua thuốc lá, Angồi trên xe đợi. Thấy tổ công tác công an phường Mường Thanh kiểm tra, Athả gói ma túy đang cầm trong lòng bàn tay phải xuống mặt đường rồi dùng chân phải đè lên làm 01 viên vỡ vụn. Tổ công tác yêu cầu A nhặt lên giao nộp. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với An, thu giữ vật chứng. Tuấn ra xe thấy Abị bắt, nói dối là xe ôm được Athuê trở rồi lấy xe bỏ đi, sau đó thì bị Cơ quan điều tra bắt.
Tại bản kết luận giám định số742/GĐ-PC09 ngày 02/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công Atỉnh Điện Biên kết luận:06 viên nén màu hồng và các mảnh vụn thu giữ của An, Tuấn gửi giám định là ma túy loại Methamphetanmine có khối lượng 0,77gam, nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Vật chứng còn lại sau khi giám định là 0,56 gamMethamphetamine.
Tại bản cáo trạng số: 98/CT-VKSTPĐBP ngày 25/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ truy tố bị cáo Phạm V A và Vương A Tvề tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa,đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1, 3 Điều 17, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Phạm V Atừ 18 tháng đến 24 tháng tù;
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 3 Điều 17, Điều 58, khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vương A T 12 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời giAthử thách gấp đôi hình phạt chính, về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Giao bị cáo cho UBND phường M T, thành phố Đ B P, tỉnh Đ để giám sát và giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, ckhoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,56gam Methamphemine (còn lại sau khi giám định) 01 mảnh giấy nilon màu đen.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy bAtH vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án,mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáokhông có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo bị truy tố: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, biên bản ghi lời khai, bản tự khai, biên bản hỏi cung các bị can, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ phù hợp với nội dung bản Kết luận điều tra, cáo trạng truy tố đối với các bị cáo nên có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 18 giờ ngày 23/6/2021 tại tổ dân phố 15, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, Phạm V A đã có hành vi cất giấu trái phép 0,77 gam Methamphetamine, mục đích cùng Vương A T sử dụng. Vương A T đã góp cho Phạm V A 100.000 đồng để mua ma túy cùng Asử dụng nên Tuấn chỉ phải chịu trách nhiệm đối với ½ số ma túy đã thu giữ. Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo với mục đích để cùng nhau sử dụng là đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Khoản 1 Điều 249 BLHS quy định:
"Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
... c) ... Methamphetamine, ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.
Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép ma túy nhằm mục đích sử dụng của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự Atoàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, các bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật nên các bị cáo đã đi mua ma túy cất giấu để phục vụ nhu cầu bản thân sử dụng, các bị cáo đã coi thường pháp luật. Chính vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra.
Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo cùng thực hiện tội phạm, nhưng trước và trong khi phạm tội không có sự bàn bạc, phân công vai trò, trách nhiệm cụ thể cho từng người, nên không có tổ chức nên cả hai bị cáo có vai trò như nhau.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo:
[3.1] Đối với bị cáo Phạm V A:
- Bị cáo Phạm V A không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.
Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại htỉnh Điện Biên, được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 10/12 thì bỏ học ở nhà lao động cùng gia đình. Ngày 02/01/2009 có hành vi Cướp giật tài sản bị Công an thành phố Điện Biên Phủ bắt khởi tố, đến ngày 12/5/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đưa ra xét xử 03 năm tù, tháng 11/2011 chấp hành xong hình phạt tù về sinh sống tại tổ dân phố 2, phường Mường Thanh. Ngày 04/6/2012 có hành vi Cướp giật tài sản bị Công Athành phố Điện Biên Phủ bắt khởi tố, đến ngày 27/9/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đưa ra xét xử 42 tháng tù, đến tháng 8/2015 đã chấp hành xong toàn bộ bản án. Bị cáo có nhân thân xấu.
[3.2] Đối với bị cáo Vương A T:
- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo tích cực giúp đỡ Cơ quAcảnh sát điều tra Công Athành phố Điện Biên Phủ phát hiện tội phạm và bố mẹ bị cáo đều được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS.
Về nhân thân của bị cáo Vương A Tuấn: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại tỉnh Điện Biên, được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 11/12 thì bỏ học ở nhà lao động cùng gia đình. Đến năm 1997 học lớp sơ cấp khí tượng thủy văn, đến năm 1998 công tác tại Đài khí tưởng thủy văn Sơn La, năm 1999 làm lao động tự do. Đến năm 2007 xây dựng gia đình với chị Lê Thị T.
Căn cứ các quy định của pháp luật và xem xét toàn bộ nội dung vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Vương A T, Phạm V A đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, tuy nhiên Phạm V A là người nghiện ma túy, có nhân thân xấu nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời giAđể bị cáo có thời giAcai nghiện ma túy, nhìn nhận ra lỗi lầm của mình. Vương A T sau khi phạm tội đã giúp cơ quAđiều tra trong việc phát hiện tội phạm về ma túy để phá án với khối lượng ma túy lớn, bản thân bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, bố, mẹ bị cáo đều được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến. Để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội, cũng như bị cáo thấy được sự khoAhồng của Pháp luật đối với ai biết ăn năn, chuộc lỗi khi đã mắc sai lầm. HĐXX thấy rằng cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, đồng thời giao bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương giám sát, bỏi bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ, quy định tại khoản 1 và 1 tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình nên việc cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự.
Hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo nên hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249/BLHS thì ngoài hình phạt chính người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng... Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo vì các bị cáo không có khả năng thi hành.
[5] Vật chứng và các vấn đề khác: Đối với 0,56 gam Methamphemine (còn lại sau khi giám định), 01 mảnh giấy nilon màu đencần tịch thu tiêu hủy theo quy định pháp luật.
Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 22B1- 37979 là của chị Vương Thị Ánh Tuyết cho Tuấn mượn, chị Tuyết không biết Tuấn dùng vào việc phạm tội. Sau khi tạm giữ cơ quAĐiều tra đã trả lại xe cho chị Tuyết ngày 04/8/2021. Xét thấy Cơ quAđiều tra đã xử lý đúng theo quy định pháp luật. Vì vậy tại phiên tòa hôm nay HĐXX không đặt vấn đề giải quyết.
Đối với chiếc điện thoại Nokia tạm giữ của Phạm V A và chiếc điện thoại Samsung-A20 tạm giữ của Vương A T, các bị cáo không dùng vào việc phạm tội. Sau khi tạm giữ cơ quAĐiều tra đã trả lại, các bị cáo đã ủy quyền cho người nhà nhận ngày 04/8/2021. Xét thấy Cơ quAđiều tra đã xử lý đúng theo quy định pháp luật. Vì vậy tại phiên tòa hôm nay HĐXX không đặt vấn đề giải quyết.
Bị cáo Akhai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người thanh niên tên Thành, nhưng không biết họ tên và địa chỉ.Cơ quAđiều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quAđiều tra Công Athành phố Điện Biên Phủ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quAtiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Án phí:Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố các bị cáo Phạm V A, Vương A T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1, 3 Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm V A 18 (Mười tám) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (23/6/2021).
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểms, điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 khoản 1, khoản 1, 3 Điều 17; Điều 58, khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vương A T. Xử phạt bị cáo: 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (14/9/2021). Giao bị cáo Vương A T cho Ủy ban nhân dân phường M T, thành phố Đ B P, tỉnh Đ giám sát giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Mường Thanh trong việc giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật thi hành án hình sự.
“Trong thời gian thử thách, bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc bị cáo được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù”.
Áp dụng khoản 4 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự. Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Vương A T đang bị tạm giam, nếu bị cáo không bị tạm giam về tội phạm khác.
Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 BLTTHS hủy bỏ thời hạn tạm giam còn lại cho bị cáo Vương A T.
3. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy 0,56 gam Methamphemine (còn lại sau khi giám định), 01 mảnh giấy nilon màu đen.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/8/2021 giữa Công Athành phố Điện Biên Phủ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên).
- Chấp nhận biên bản trao trả tài sản ngày 04/8/2021.
4. Án phí:Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo Phạm V A phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Vương A T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14/9/2021).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 152/2021/HSST
Số hiệu: | 152/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về