Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 142/2021/HSST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 142/2021/HSST NGÀY 07/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 147/2021/TLST-HS ngày 20/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2021/QĐXXST- HS ngày 25/8/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Mạnh D - Sinh ngày 13/11/1987; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Bản T, xã C, huyện S, Sơn La; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 11/12; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Lê Đình B, con bà Bùi Thị T; Bố dượng Đoàn Duy S (đã chết); Vợ Lèo Thị H và có 02 con (con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 23/6/2021 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 40 ngày 22/6/2021 tổ công tác Công an xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Bó, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã phát hiện một người đàn ông đang điều khiển xe mô tô theo hướng từ bản H8 đi bản Chiềng Khương có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, tổ công tác yêu cầu dừng xe kiểm tra hành chính. Khi bị dừng xe người đàn ông khai là Đoàn Mạnh D trú tại bản Tân Lập, xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã, tổ công tác yêu cầu D nếu có đồ vật liên quan đến vi phạm pháp luật thì tự giác giao nộp. D đã tự lấy từ trong túi quần ra 01 chiếc điện thoại di động và lấy từ bên trong ốp điện thoại ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột liên kết màu trắng (D khai nhận là Heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định, ngoài ra còn thu giữ 01 điện thoại di động, 01 xe mô tô.

Ngày 23/6/2021 tại Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng, kết quả: Số chất bột liên kết màu trắng có khối lượng 0,13 gam, trích hết 0,13 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu D.

Tại Kết luận giám định số 1199 ngày 28/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: "Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,13 gam. Tổng khổi lượng ma túy thu giữ là 0,13 gam, loại Heroine".

Quá trình điều tra Đoàn Mạnh D khai nhận: Khoảng 07 giờ ngày 22/6/2021 D điều khiển xe mô tô từ nhà ở bản T, xã C đi lên làm vườn nhãn ở bản H8, xã Mường Hung, huyện Sông Mã, khoảng 09 giờ khi D đang làm vườn thì thấy một người đàn ông dân tộc Thái chở măng đi bán, D gọi người này rồi mua 20.000đ tiền măng, sau khi mua măng D hỏi người này có Heroine không nếu có thì cho D xin một ít, người đàn ông trả lời có và lấy từ trong người ra đưa cho D 01 gói nilon màu trắng, khi có ma tuý D quay vào vườn nhãn trích một ít ra sử dụng, số ma túy còn lại D gói rồi cất giấu vào phía trong ốp lưng của điện thoại di động, đến khoảng 18 giờ cùng ngày D đi về nhà, khi đi đến khu vực bản Bó, xã Chiềng Khương thì bị Tổ công tác Công an xã Chiềng Khương kiểm tra và D đã giao cho tổ công tác số ma tuý đang cất giấu. Mục đích cất giấu ma tuý là để bản thân sử dụng.

Tại bản Cáo trạng số 111/CT-VKS ngày 19 tháng 8 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Đoàn Mạnh D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đoàn Mạnh D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 14 - 20 tháng tù. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo. Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy vật chứng liên quan. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động. Buộc bị cáo chịu án phí hình sự. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, nhất trí với nội dung Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 22/6/2021; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 1199 ngày 28/6/2021; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến sự việc và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giấu ma túy với mục đích để sử dụng, sau đó bị phát hiện bắt quả tang, khối lượng ma túy bị thu giữ là 0,13 gam, loại Heroine của bị cáo Đoàn Mạnh Dũng đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hộI, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng sức khỏe con người, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trước khi bị phát hiện hành vi bị cáo đã tự giác giao nộp số ma tuý đang cất giấu, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị thu giữ để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với chiếc điện thoại di động bị cáo sử dụng để cất giấu ma tuý, nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 18Z2 - 3440 tạm giữ trong vụ án đã xác định được thuộc sở hữu của chị Lèo Thị Y (em vợ của bị cáo), do vợ bị cáo mượn đi làm vườn, khi D mang xe thực hiện tội phạm chị Y không biết, cơ quan điều tra đã trả lại chị Y là đảm bảo theo quy định.

[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông dân tộc Thái, bị cáo khai nhận đã cho bị cáo ma túy, quá trình điều tra do bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể của người này, nên không có căn cứ để xác minh mở rộng vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[9] Về đề nghị của Kiểm sát viên: Đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng và các vấn đề liên quan khác là phù hợp nên được chấp nhận. Về mức hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt không có tiền án, tiền sự, khối lượng ma tuý bị thu giữ là 0,13gam, mức đề nghị như vậy không đảm bảo được tính khoan hồng, nên cần xem xét khi lượng hình.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Mạnh D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Đoàn Mạnh D 13 (mười ba) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 23/6/2021.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng liên quan bao gồm:

+ 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

+ 01 mảnh giấy màu trắng.

(Các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 046403).

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 110/QĐ - VKSSM ngày 19/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2021 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 07/9/2021./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

430
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 142/2021/HSST

Số hiệu:142/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;