Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 60/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 60/2021/HS-ST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 61/2021/HSST ngày 01/9/2021 theo Quyết đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021 đối với:

Bị cáo Lương Văn Thái T, sinh năm 1995, tại xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lương Văn Đ (đa chêt) và bà Lê Thi M; có vơ la Nguyên Thị Phương L và 02 con, lơn nhât sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 78/2015/HSST ngay 25/4/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm căp tài sản”; Bản án số 30/2017/HSST ngay 29/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” ; Bị bắt tạm giữ từ ngày 09/6/2021 đến ngày 12/6/2021 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nha tam giư Công an huyên Tiên Hai , tỉnh Thái Bình. (Trích xuất có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Phạm Văn Đ- sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn V, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Người làm chứng:

- Anh Lương Văn T - sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 ngày 09/6/2021, tại nhà của Lương Văn Thái T ở Thôn Đ, xã T, huyện T, tổ công tác Công an huyện T phát hiện bắt quả tang Lương Văn Thái T có hành vi bán môt tui nilon trong suôt co viên mau đo bên trong chưa chât tinh thê trong suôt cho Phạm Văn Đ với giá 500.000đồng. Qua giám định chất tinh thể trong suốt đựng trong môt tui nilon trong suôt co viên mau đo là ma túy (loại Methamphetamine) có khối lượng 0,0261 gam. Ngoài ra, khám xét chỗ ở của Thành còn thu 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu xanh bên trong có chứa 5 viên nén màu hồng và 01 túi nilon trong suốt có mép có mép cài viền màu xanh bên trong chưa 02 viên nen mau hông + 02 mảnh viên nén màu hồng (Ký hiệu M). Qua giám định mẫu vật ký hiệu M là ma túy, loại Methamphetamine có tổng khối lượng 2,2442 gam, T khai đây là ma túy T mua về với mục đích để bán kiếm lời.

Quá trình điều tra bị cáo Lương Văn Thái T khai nhận: Do cần tiền tiêu sài cá nhân nên khoang 20 giơ ngày 08/6/2021 Lương Văn Thai T đi bộ tự nhà ra đương băt xe ôm cua ngươi không quen biêt sang khu v ực chơ “Gach” thuôc xa Thái Tân, huyên Thai Thuy, tỉnh Thái Bình mua ma túy về, mục đích để bán kiếm lời. Tại đây, T gặp một người thanh niên qua noi chuyên ngươi nay giơi thiêu tên la H và có ma túy tổng hợp bán, T không biêt tuôi, đia chi cu thê cua Hiệp ở đâu. T đa mua 1.000.000đ ma tuy tư ngươi nay , sô ma tuy đươc goi trong tui nilon môt măt màu trắng , môt măt trong suôt co mep cai bên trong co chưa ba tui nilon trong đo :

01 túi nilon trong suốt được cuốn dây dù mà u trăng bên trong co chưa chât tinh thê trong suôt; 01 túi nilon trong suốt có mép cài viền màu xanh bên trong có chứa 5 viên nen mau hông va 01 túi nilon trong suốt có mép có mép cài viền màu xanh bên trong chưa 02 viên nen m àu hồng + 02 mảnh viên nén màu hồng . Biêt đây la ma túy tổng hợp nên T nhân va băt xe ôm vê nha . Đên nha T bỏ túi ma túy đá vừa mua lây ra môt it ma tuy đa cho vao tui nilon trong suôt co viên mau đo , mục đích để bán. Đên khoang 14 giơ 20 phút, ngày 09/6/2021, T và anh T đang sưa nha cua T thì có Phạm Văn Đ đến gặp T hỏi mua ma túy đá , T đông y . Đ đưa cho T môt tơ tiên mênh gia 500.000đ, do Th đang đưng trên thang nên T lây tiên cua Đ đưa lên cho T. T nhân tiên cua Đ rôi cât vao trong tui quân phia sau bên phai đang măc . Sau đo, T chỉ cho Đ ra lây tui ma tuy đa Thanh đê ơ tru côt dâu nha T. T nhìn thấy Đ câm tui ma tuy đa ma T để trước đó . Khi T và Đ vưa giao dich xong thi bi tô công tac Công an huyên Tiên Hai phat hiên băt giư . T tư giac giao nôp tư tui quân phía sau bên phả i đang măc ra môt tơ tiên mênh gia 500.000đ va khai nhân đây la tiên T bán một túi ma túy đá cho Đ mà có; Đ tư giac giao nôp tư tui quân phia trươc bên phai đang măc ra môt tui nilon trong suôt co viên mau đo bên trong chưa chât tinh thê trong suôt va khai nhân đây la ma tuy đa vưa mua cua T vơi gia 500.000đ vê đê sư dung. T khai nhân đang giup T sưa nha thi thây Đ đến và đưa cho T sô tiên 500.000đ, do T đang đưng trên thang nên Tiên lây tiên cua Đ đưa lên cho T, T không biêt viêc T bán ma túy cho Đ , T tư kiêm tra ngươi không phat hiên gi liên quan đên ma tuy . Công an huyên Tiên Hai đa lâp biên ban băt ngươi phạm tội quả tang; Biên ban quan ly sô tiên 500.000đ cua T , quản lý niêm phong túi vật chứng trên cua Đ vào một phong bì the dán kín.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lương Văn Thai T phát hiện thu giữ: Môt tui nilon môt măt mau trăng , môt măt trong suôt co mep cai bên trong co chưa ba tui nilon trong đo: 01 túi nilon trong suốt được cuốn dây dù màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể trong suốt ; 01 túi nilon trong suốt có mép cà i viên mau xanh bên trong co chưa 5 viên nen mau hông va 01 túi nilon trong suốt có mép có mép cài viền màu xanh bên trong chứa 02 viên nen mau hông + 02 mảnh viên nén màu hông. Cơ quan điêu tra Công an huyên Tiên Hai đã l ập biên bản niêm phong sô v ật chứng trên vào môt phong bi dan kin, ký hiệu là M.

Tại bản kết luận giám định số 233/KLGĐMT - PC09 ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định thu giữ của Phạm Văn Đ gửi giám định ma túy, loại Methamphetamine co khối lượng 0,0261gam; Mẫu vật gửi giám định ký hiệu M thu giữ khi khám xét chỗ ở của Lương Văn Thai T gồm: Chất dạng tinh thể trong suốt là ma túy , loại Methamphetamine có khối lượng 1,4497gam; 05 viên nén màu hồng la ma túy , loại Methamphetamine có khối lượng 0,5290 và 02 viên nén màu hồng và 02 mảnh viên nén màu hồng là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,2655g.

Tại bản Cáo trạng số 65/CT-VKSTH, ngày 31/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Thái Bình đã truy tố Lương Văn Thái T về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lương Văn Thái T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Căn cứ vào khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lương Văn Thái T mức án từ 03(Ba) năm 09 (Chín) tháng tù đến 04 (Bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đề nghị các vấn đề khác có liên quan của vụ án.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến, không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, không khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội cải tạo, sửa chữa sai lầm sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lương Văn Thái T tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra cũng như trong giai đoạn truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện T ngày 09/62021 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T.

- Các biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện T lập cùng ngày 09/6/2021 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T.

- Biên bản khám xét nhà ở của Lương Văn Thái T do Công an huyện T ngày 09/6/2021 tại nơi ở của Lương Văn Thái T tại Thôn Đ Nội, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình.

- Bản kết luận giám định số 223/KLGĐ-KTHS ngày 10/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Lời khai của những người làm chứng là anh lương Văn Tiến sinh năm 1990 trú tại trú tại thôn Viên Ngoại, xã Nam Hồng, huyện T.

- Lời khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Phạm Văn Đ sinh năm 1990 trú tại thôn Viên Ngoại, xã Nam Hồng, huyện T.

Xét thấy các tài liệu, chứng cứ nêu trên phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo Lương Văn Thái T về địa điểm, thời gian, hành vi phạm tội.

[3] Đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Ma túy là chất độc hại gây nghiện, nó hủy hoại sức khỏe của con người, làm suy thoái nòi giống, là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS đồng thời cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản…, vì vậy mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm các hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Hành vi Mua bán trái phép chất ma túycủa bị cáo là rất nghiêm trọng thể hiện thách thức với xã hội, chống đối pháp luật, đi ngược lại với sự cố gắng của các cấp chính quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo là cố ý chỉ vì hám lợi, muốn có tiền tiêu xài nhưng không bằng sức lao động chân chính của mình bị cáo đã bán ma túy cho người khác để hôm nay phải chịu sự phán xét của pháp luật về hành vi sai trái của mình. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bị cáo buộc phải nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Mặt khác, bị cáo là người có nhân thân xấu: Tại bản án số 78/2015/HSST ngay 25/4/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” ; Bản án số 30/2017/HSST ngay 29/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải , tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” . Do đó Hội đồng xét xử cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cần áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi mà bị cáo đã gây ra. Có như vậy mới thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật nước ta và có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cở sở xác định: Khoảng 14 giờ 30 ngày 09/6/2021, tại nhà ở của Lương Văn Thái T tại Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình. Công an huyện T phát hiện bắt quả tang Thành có hành vi bán trái phép 01 gói ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0.0261 gam cho Phạm Văn Đ lấy 500.000 đồng. Ngoài ra T còn tàng trữ 2,2442 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời. Tổng khối lượng ma túy thu giữ trong vụ án là: 2.2703 gam. Hành vi của bị cáo đã phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251: Tội Mua bán trái phép chất ma túy:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi;

g) Qua biên giới;

h) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;

i) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

k) Lá cây cooca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá; rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

n) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

o) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này;

q) Tái phạm nguy hiểm.

…… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy điều kiện, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo có 02 con đều còn nhỏ nên không áp dụng dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy còn lại sau giám định là 1,2310 gam chất dạng tinh thể trong suốt và 0,5631 gam viên ném màu hồng cùng bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M số 223/KLGĐMT, xác định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, mua bán và lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 500.000đồng thu giữ của Lương Văn Thái T là tiền bán ma túy cho Phạm Văn Đ. Hội đồng xét xử xác định đây là số tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về các vấn đề khác của vụ án: Về nguồn gốc 2,2703 gam Methamphetamine mà cơ quan Công an thu giữ trong vụ án, Thành khai mua của một người đàn ông tên Hiệp không biết tuổi, địa chỉ tại chợ Gạch xã Thái Tân, huyện Thái Thụy. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra không có đủ căn cứ điều tra, xác minh làm rõ người đã bán ma túy cho Thành để xử lý theo pháp luật.

Trong vụ án này, Phạm Văn Đ là người mua ma túy của Lương Văn Thái T với mục đích để sử dụng, bản thân Đình không có tiền án, tiền sự, khối lượng ma túy dưới 0,1gam. Do đó, không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đình nên cơ quan cảnh sát điều tra ra quyết định xử phạt hành chính đối với Phạm Văn Đ là có căn cứ và đúng pháp luật.

Anh Lương Văn T là người cầm hộ Thành 500.000đồng, anh T không biết việc mua bán ma túy giữa T và Đ nên không có căn cứ xử lý đối với Lương Văn T.

[9] Về án phí: Bị cáo Lương Văn Thái T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Văn Thái T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lương Văn Thái T 03 (Ba) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 09/6/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định 1,2310 gam chất dạng tinh thể trong suốt và 0,5631 gam viên ném màu hồng cùng bao gói trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định M số 223/KLGĐMT ngày 10/6/2021 Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng (Các vật chứng trên đã được Cơ quan điều tra Công an huyện T thu giữ, chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện T quản lý theo biên bản giao nhận ngày 01/9/2021).

5. Về án phí: Bị cáo Lương Văn Thái T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 23/9/2021.

Anh Phạm Văn Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 60/2021/HS-ST

Số hiệu:60/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;