TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 27/10/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 10 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 04/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Hà Văn T, sinh năm 1986 tại huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Tiểu khu X, xã S, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 02/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn U và bà Mè Thị V; bị cáo chưa có vợ và con; tiền án:
- Năm 2005 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án số 125/2005/HSST, ngày 11/8/2005).
- Năm 2006 bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”. Tổng hợp hình phạt chung cả 02 bản án là 40 tháng 28 ngày tù (Bản án số 09/2006/HSST, ngày 15/02/2006).
- Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 238/2011/HSST, ngày 09/9/2011).
Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/4/2021 đến nay.
Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Hà Văn T: Ông Đàm Mạnh Hùng, là Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Hà Văn Q, sinh năm 1981; trú tại: bản S, xã L, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La (hiện đang bị tạm giam chờ thi hành án tử hình, tại trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La). Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 30 phút ngày 13/4/2021, tại khu vực bản S, xã L, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu L - Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La đã phát hiện, bắt quả tang Hà Văn T đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng gồm:
11 túi nilon (09 túi màu xanh và 02 túi màu hồng) đều chứa các viên nén màu hồng, một mặt ký hiệu WY, nghi là ma túy tổng hợp; 01 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột nén màu trắng, nghi là Heroine. (Số vật chứng nêu trên thu giữ tại vị trí giá để hàng của chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu đen bạc, không có biển kiểm soát, do Hà Văn T điều khiển). Hà Văn T khai là ma túy tổng hợp và Heroine đã mua được của một người phụ nữ Mông Lào với giá 10 triệu đồng, mục đích để bán kiếm lời.
Ngoài ra còn tạm giữ: 01 điện thoại di động NOKIA 105 màu xanh đen; 01 chiếc xe máy hiệu Honda Dream màu đen bạc, không có biển kiểm soát.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng, trích mẫu giám định do Đồn biên phòng cửa khẩu L lập ngày 14/4/2021 đối với số vật chứng nghi là chất ma túy thu giữ của Hà Văn T, như sau:
- 11 túi nilon bên trong có chứa 2.076 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 199,09 gam, trích trong mỗi túi 05 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 5,25 gam ký hiệu từ T1 đến T11 làm mẫu trưng cầu giám định ma túy.
- Chất bột nén màu trắng trong 01 gói giấy bạc có khối lượng 3,01 gam. Trích 0,29 gam làm mẫu trưng cầu giám định ma túy (Ký hiệu T12).
Kết luận giám định số 789 ngày 15/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
“Mẫu gửi giám định ký hiệu từ T1 đến T11 đều là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của các mẫu gửi giám định là 5,25 gam.
Mẫu gửi giám định ký hiệu T12 là ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 199,09 gam; Loại Methamphetamine và 3,01 gam; Loại Heroine.” Quá trình điều tra Hà Văn T khai nhận:
Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 13 giờ 00 phút ngày 13/4/2021, Hà Văn T điều khiển xe máy từ nhà đi đến khu vực bản S, xã L, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy để bản thân sử dụng và bán kiếm lời. Khi đi đến khu vực đường biên giới thuộc bản S, T gặp và hỏi mua được của 01 người phụ nữ dân tộc Mông (T không biết họ tên và địa chỉ) 11 túi hồng phiến và 01 gói Heroine với giá 10.000.000 đồng. Sau đó, T cất số ma túy vừa mua được tại vị trí giá để hàng của xe máy rồi điều khiển xe máy đi về nhà, trên đường về thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu L - Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Về nguồn gốc 199,09 gam Methamphetamine và 3,01 gam Heroine thu giữ trong vụ án, Hà Văn T khai nhận mua của một người phụ nữ quốc tịch Lào (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) tại khu vực đường biên giới thuộc bản S, xã S, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, quá trình điều tra ngoài lời khai của bị can không còn căn cứ nào khác chứng minh. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La không có căn cứ mở rộng vụ án.
Tại Cáo trạng số 110/CTr-VKS-P1 ngày 04/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Hà Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Hà Văn T nhất trí với nội dung cáo trạng và khai nhận hành vi phạm tội như đã khai trong quá trình điều tra.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn T 20 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại; trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại Nokia 105 màu xanh đen; trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu đen bạc cho Hà Văn Q; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
* Luật sư Đàm Mạnh Hùng bào chữa cho bị cáo Hà Văn T: Nhất trí với nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; bị cáo đã thành khẩn khai báo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt; về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, Luật sư nhất trí với quan điểm của Kiểm sát viên.
Bị cáo Hà Văn T nhất trí với quan điểm bào chữa của Luật sư bào chữa, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khác, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, Luật sư, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra là đồng nhất, đã thể hiện: Do bản thân nghiện chất ma túy nên ngày 13/4/2021, Hà Văn T đã đi đến khu vực biên giới thuộc bản S, xã L, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy sử dụng và bán kiếm lời. Bị cáo đã mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông (người Lào) 11 túi hồng phiến và 01 gói Heroine với giá 10 triệu đồng, sau đó khi đang trên đường đi về nhà thì bị cáo bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hà Văn T do tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu L - Bộ đội Biên phòng tỉnh Sơn La lập hồi 15 giờ 30 phút ngày 13/4/2021 cùng vật chứng thu giữ (11 túi nilon bên trong có chứa các viên nén màu hồng và 01 gói bột nén màu trắng);
Biên bản mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng, trích mẫu giám định do Đồn biên phòng cửa khẩu L lập ngày 14/4/2021 đối với số vật chứng nghi là chất ma túy thu giữ của Hà Văn T (xác định 11 túi nilon bên trong có chứa 2.076 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 199,09 gam; Chất bột nén màu trắng trong 01 gói giấy bạc có khối lượng 3,01 gam);
Kết luận giám định số số 789 ngày 15/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:
“Mẫu gửi giám định ký hiệu từ T1 đến T11 đều là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của các mẫu gửi giám định là 5,25 gam.
Mẫu gửi giám định ký hiệu T12 là ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam.
Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 199,09 gam; Loại Methamphetamine và 3,01 gam; Loại Heroine.” - Lời khai nhận tội của bị cáo Hà Văn T phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc bắt giữ đối với bị cáo và tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập lưu trong hồ sơ vụ án.
Từ những căn cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hà Văn T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo Hà Văn T đã mua bán trái phép hai loại chất ma túy (199,09 gam Methamphetamine và 3,01 gam Heroine) có tổng khối lượng là 202,1 gam, vi phạm tình tiết định khung hình phạt “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.”. Quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự với khung hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Do đó, Cáo trạng số 110/CTr-VKS-P1 ngày 04/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố với bị cáo Hà Văn T về tội “Mua bán trái phep chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Bị cáo đã thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng tương đối lớn, mức độ nguy hiểm và gây hại cho xã hội cao, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, tiền chất ma túy, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm và tệ nạn khác trong xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Hà Văn T là đối tượng nghiện ma túy, đã có 03 tiền án, trong đó: Tại bản án số 125/2005/HSST ngày 11/8/2005 Hà Văn T bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tại bản án số 09/2006/HSST, ngày 15/02/2006 Hà Văn T bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ”, tổng hợp hình phạt chung cả 02 bản án là 40 tháng 28 ngày tù; tại bản án số 238/2011/HSST, ngày 09/9/2011 Hà Văn T bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm). Mặt khác, bị cáo chưa thực hiện việc bồi thường dân sự cho người bị hại theo quyết định của Bản án số 238/2011/HSST, nên theo quy định tại khoản 2 Điều 73 Bộ luật Hình sự thì bị cáo chưa được xóa án tích đối với cả ba bản án nêu trên. Do đó, lần phạm tội này bị cáo đã vi phạm tình tiết tăng nặng “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét thấy, bị cáo có nhân thân xấu, có một tình tiết giảm nhẹ nhưng cũng có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng tương đối lớn, tính nguy hại cho xã hội cao, nên mức hình phạt 20 năm tù đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã đề nghị là tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, mới đảm bảo thời gian giáo dục cải tạo riêng, răn đe và phòng ngừa chung, nên cần chấp nhận đề nghị trên.
[5] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng có giá trị nên không có điều kiện thi hành, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về đối tượng có liên quan trong vụ án:
Bị cáo T khai người đã bán ma túy cho bị cáo là một người phụ nữ dân tộc Mông (quốc tịch Lào), nhưng bị cáo không biết thông tin gì về họ tên, tuổi, địa chỉ số điện thoại của người phụ nữ đó. Ngoài lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác để tiếp tục điều tra làm rõ đối tượng liên quan trên.
[7] Về xử lý vật chứng, tài sản của vụ án:
Đối với 193,84 gam Methamphetamine và 2,72 gam Heroine còn lại sau khi đã trích mẫu giám định và 09 túi nilon màu xanh, 02 túi nilon màu hồng, 01 túi nilon màu trắng ban đầu, vỏ gói giấy bạc, vỏ giấy bọc niêm phong ban đầu, 01 que Test thử ma túy. Xét thấy là chất ma túy, vỏ gói cất giấu ma túy và vật không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105 màu xanh đen, bên trong có gắn 01 sim Viettel số thuê bao 0963.143.032, thu giữ khi bắt quả tang Hà Văn T, bị cáo khai không sử dụng chiếc điện thoại nêu trên để liên lạc trao đổi nội dung thực hiện hành vi phạm tội. Xét chiếc điện thoại này không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu đen bạc, không có biển kiểm soát, thu giữ của Hà Văn T. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai chiếc xe máy nêu trên là của Hà Văn Q (là anh trai của bị cáo, hiện đang bị tạm giam chờ thi hành án tử hình, tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La). Kết quả tra cứu số khung, số máy của chiếc xe máy trên tại Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Sơn La không có thông tin về người đứng tên đăng ký chiếc xe và chiếc xe không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng của vụ án khác. Tại cơ quan điều tra Hà Văn Q khai đã mua sử dụng chiếc xe máy nêu trên từ năm 2015 của một người đàn ông dân tộc Mông, quốc tịch Lào (Q không quen biết). Tại thời điểm Q mua lại chiếc xe máy trên đã không có biển kiểm soát, không làm thủ tục giấy tờ mua bán xe và cũng không ai biết, chứng kiến việc mua bán chiếc xe máy nêu trên. Việc Hà Văn T sử dụng chiếc xe máy làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội thì Q không biết, không tham gia, Hà Văn Q không có kiến nghị gì về chiếc xe máy trên. Ngoài lời khai của Q và T không có căn cứ khác chứng minh chiếc xe trên thuộc quyền sở hữu của Hà Văn Q, mặt khác bị cáo Hà Văn T đã sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội, nên cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước.
[8] Về án phí: Bị cáo Hà Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 13/4/2021).
- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng, tài sản: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2.1. Tịch thu tiêu hủy:
- 01 (một) hộp vật chứng bọc bằng giấy trắng còn nguyên niêm phong, một mặt hộp có ghi vật chứng vụ: “Hà Văn T phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 13.4.2021 có 2.021 viên nén màu hồng = 193,84 gam nghi là Methamphetamine và 2,72 gam chất bột màu trắng nghi là Heroine”. (Mẫu gửi giám định ký hiệu từ T1 đến T11 đều là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của các mẫu gửi giám định là 5,25 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T12 là ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 199,09 gam; Loại Methamphetamine và 3,01 gam; Loại Heroine.). Tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong có dòng chữ: Công an tỉnh Sơn La - giấy niêm phong số 032678, 032677 và 04 dấu tròn đỏ của Đồn Biên phòng cửa khẩu L, huyện Mộc Châu, Công an tỉnh Sơn La, cùng chữ ký dòng ghi rõ họ tên của các thành phần tham gia niêm phong;
- 01 (một) phong bì do Bưu điện phát hành còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: “Test thử ma túy của Hà Văn T ngày 14/4/2021. Kết quả dương tính”. Tại mép giáp lai được dán giấy niêm phong của Đồn Biên phòng cửa khẩu L, hồi 08 giờ 00 phút ngày 14/4/2021 và 03 dấu tròn đỏ của Đồn Biên phòng cửa khẩu L, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La cùng chữ ký dòng ghi rõ họ tên của các thành phần tham gia niêm phong;
2.2. Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước:
- 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda Dream màu đen bạc, không có biển kiểm soát, số khung C100M0204866, số máy C100ME0204863, đã qua sử dụng, không có gương chiếu hậu, không có chìa khóa (thu giữ của Hà Văn T).
2.3. Trả lại cho bị cáo Hà Văn T:
- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105 màu xanh đen, bên trong có gắn 01 sim Viettel số thuê bao 0963.143.032, được đựng trong 01 (một) phong bì do Bưu điện phát hành còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì có ghi: “01 (một) chiếc điện thoại di động thu giữ của Hà Văn T và vỏ phong bì niêm phong ban đầu”.
(Vật chứng, tài sản: Chi tiết theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/8/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La và Cục thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Buộc bị cáo Hà Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Hà Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/10/2021); người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hà Văn Q vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 06/2021/HS-ST
Số hiệu: | 06/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về