TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SL
BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 21/10/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 21 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
LVT, sinh ngày 20/8/1997, tại MT, ML, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản PB, xã MB, huyện ML, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn I, sinh năm 1931 và bà Lò Thị N, sinh 1931; có vợ là Lò Thị Y, sinh năm 2001, có 02 con sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2021; Bị cáo có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo LVT bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào hồi 17 giờ 15 phút ngày 21/6/2021, tại nhà thuộc bản PB, xã MB, huyện ML, tỉnh SL, Công an phát hiện và bắt quả tang LVT, sinh ngày 20/8/1997, ở bản PB, xã MB, huyện ML, tỉnh SL đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ do LVT tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc giao nộp: 01 túi nilon màu xanh, bên trong có chứa 02 gói gồm: 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng, LVT khai là Heroine; 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng, trên mặt các viên có chữ WY, LVT khai là hồng phiến cất giữ nhằm mục đích để sử dụng và bán kiếm lời;
Ngày 22/6/2021 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả: 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng, LVT khai là Heroine có khối lượng 3,68 gam lấy 0,30 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T1. 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng, trên mặt các viên có chữ WY, LVT khai là hồng phiến có khối lượng 0,28 gam lấy 0,18 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T2. Cơ quan Công an huyện ML ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.
Tại Kết luận giám định số: 1190/KLGĐ ngày 25/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL, kết luận: Mẫu ký hiệu T1 là chất ma túy, loại chất Heroine, khối lượng giám định là 0,30 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 3,68 gam Heroine; Mẫu ký hiệu T2 là chất ma túy, loại chất Metham phetamine, khối lượng giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,28 gam Methamphetamine;
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo LVT không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Quá trình điều tra LVT khai nhận: Ngày 21/6/2021 LVT đi từ nhà đến bản HH, xã MB, huyện ML, tại đây LVT có mua của một người nam thanh niên không biết tên và địa chỉ 01 túi nilon màu xanh, bên trong có chứa 02 gói gồm:
01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng là Heroine; 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng với giá 1.000.000, đồng cất trong túi quần bên phải đang mặc, mang về mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được ma túy đi về nhà lấy một ít Heroine ra sử dụng, số ma túy còn lại cất giấu trong túi quần bên phải, thì bị Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Về nguồn gốc ma túy LVT khai mua của một người nam thanh niên không biết tên, địa chỉ với số tiền 1.000.000, đồng. Không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVT.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo LVT đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Bản cáo trạng số: 72/CT-VKS-ML ngày 05 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo LVT về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo LVT phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt LVT từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù;
Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do không có tài sản.
Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở;
01 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 túi nilon màu xanh 3,38 (ba phẩy ba mươi tám) gam Heroine; 0,10 (không phẩy một) gam Methamphetamine (đều được niêm phong).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên toà bị cáo LVT thừa nhận: Hồi hồi 17 giờ 15 phút ngày 21/6/2021, tại nhà thuộc bản PB, xã MB, huyện ML, tỉnh SL đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 3,68 gam và 0,28 gam Methamphetaminne, mục đích để sử dụng và bán kiếm lời thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.
Do LVT cất giữ hai chất ma túy, cần căn cứ Điều 4 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018, để tính tổng khối lượng của hai chất như sau: Số Methamphetamine có khối lượng 0,28 gam + số Heroine có khối lượng 3,68 gam = 3,96 gam ma túy, nên thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định.
Như vậy có đủ cơ sở kết luận: LVT đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để bán, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Hội đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt là đối tượng liên quan đến hoạt động ma túy. Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tại phiên toà bị cáo thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[3]. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 túi nilon màu xanh 3,38 (ba phẩy ba mươi tám) gam Heroine; 0,10 (không phẩy một) gam Methamphetamine (đều được niêm phong).
Về nguồn gốc ma túy LVT khai mua của một người thanh niên không biết tên, địa chỉ với số tiền 1.000.000, đồng. Không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVT, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:
Tuyên bố bị cáo LVT phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo LVT 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 21/6/2021.
Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu huỷ: Vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh nilon màu xanh; 01 túi nilon màu xanh 3,38 (ba phẩy ba mươi tám) gam Heroine; 0,10 (không phẩy một) gam Methamphetamine (đều được niêm phong).
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.
Bị cáo LVT phải chịu 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 21/10/2021.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 04/2021/HS-ST
Số hiệu: | 04/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/10/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về