Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 54/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 54/2021/HSST NGÀY 09/07/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 34/2021/HSST ngày 13 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo: Họ và tên: V; Sinh năm: 1996, tại tỉnh N.

Hộ khẩu thường trú: thôn 4, xã B, huyện Đ, tỉnh P. Chỗ ở: thôn 4, xã B, huyện Đ, tỉnh P. Nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; con ông Trần Văn M và bà Trần Thị L; Bị cáo có 04 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ 4 trong gia đình.Tiền sự, Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/02/2021 cho đến nay ( Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Văn M; Sinh năm: 1957 (có mặt) Nơi cư trú: Thôn 4, xã B, huyện Đ, tỉnh P.

Người làm chứng:

1/ Đào Xuân T; sinh năm: 1996 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 6, xã B, huyện Đ, tỉnh P.

2/ Tạ Thị Thu H; sinh năm: 2006 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn 5, xã Y, huyện Đ, tỉnh P.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 02/02/2021, Đào Xuân T gọi điện cho V hỏi mua 01 gói ma túy với số tiền 300.000 đồng, V đồng ý. Sau đó, V lấy túi xách có 07 gói ma túy, rồi điều khiển xe môtô biển số 93L1–439.48 đến khu vực nhà văn hóa thuộc thôn 3, xã B, huyện Đ, tỉnh P để giao ma túy cho T. Khi V đưa gói ma túy cho T và lấy 300.000 đồng của T thì bị Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã B bắt quả tang người cùng tang vật; khám xét trong túi xách của V phát hiện 06 gói ma túy, nên Cơ quan Công an lập biên bản niêm phong toàn bộ tang vật.

Ngoài ra, quá trình điều tra V còn khai nhận: Vào khoảng đầu tháng 01 năm 2021, V bán cho Đào Xuân T 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng tại khu vực sau Điện Máy Xanh xã B và ngày 01/02/2021, V nhờ Tạ Thị Thu H, sinh ngày 03/4/2006 giao cho Đào Xuân T 01 gói ma túy được gói trong tờ tiền 2.000 đồng mà trước đó V đã nhờ H cất giữ giúp, bán với giá 300.000 đồng tại quán bida “Hưng Thịnh Phát” thuộc thôn 4, xã B. Khi V nhờ H đưa gói ma túy cho T, thì H không biết bên trong tờ tiền có ma túy. V khai nhận, nguồn gốc số ma túy mà V có được là do V bỏ 5.000.000đ mua vào tháng 01 năm 2021 của 01 người đàn ông tên “ I ” ở khu vực đường K, quận E, Thành phố Z mang về nhằm mục đích sử dụng và bán cho người nghiện.

Tại Kết luận giám định số: 280/2021GĐ-MT ngày 05/02/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh P, kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 (một) gói nylon (Ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,0351gam; tinh thể màu trắng có trong 06 (sáu) gói nylon (Ký hiệu M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,7702 gam.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị can thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Vật chứng vụ án: Số ma túy còn lại sau giám định, 01 xe môtô biển số 93L1– 439.48, một điện thoại di động nhãn hiệu HTC và 03 tờ tiền polyme mệnh giá 100.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Đ đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ để phục vụ quá trình truy tố, xét xử.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến về vật chứng đã bị thu giữ và kết luận trưng cầu giám định.

Tại bản cáo trạng số: 36/CT–VKS ngày 11/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, e khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề xuất các nội dung sau:

Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; về hình phạt: áp dụng điểm b, e khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo V từ 07 ( bảy) năm tù đến 07 ( bảy) năm 06 (sáu) tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo nghiện ma túy không có thu nhập.

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy tinh thể màu trắng có trong 01 (một) gói nylon (Ký hiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,0351gam; tinh thể màu trắng có trong 06 (sáu) gói nylon (Ký hiệu M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 1,7702 gam. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC và số tiền 300.000đồng tiền thu lợi bất chính. Hoàn trả cho ông Trần Văn M 01 xe môtô biển số 93L1–439.48.

Về án phí buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Lời nói sau cùng, bị cáo V thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng, bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Đ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: ngày 02/02/2021 V bán 01 gói ma túy cho Đào Xuân T với số tiền 300.000 đồng. Khi Vũ đưa gói ma túy đá cho T và lấy 300.000 đồng của T thì bị Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã B bắt quả tang người cùng tang vật. Khám xét trong túi xách của V phát hiện 06 gói ma túy. Ngoài ra, quá trình điều tra V còn khai nhận vào khoảng đầu tháng 01 năm 2021 V bán cho Đào Xuân T 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng tại khu vực sau Điện Máy Xanh xã B; ngày 01/02/2021 bán cho T 01 gói ma túy với giá 300.000đ, bằng cách nhờ H giao cho T và H nhận tiền từ T 300.000đ tại phía sau cửa hang Bách Hóa Xanh xã B, gói ma túy V đã nhờ H cất giữ trước đó; việc bán ma túy của bị cáo H không biết, H sinh ngày 03/4/2006 đến nay chưa đủ 16 tuổi. Như vậy, hành vi bán ma túy nhiều lần với tổng số lượng 1.8053 gam, sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội của bị cáo V thực hiện đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, e khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý phạm tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo V đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Ngoài ra, bị cáo có tham gia quân ngũ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, răn đe đối với bị cáo và có tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội. Bị cáo nghiện ma túy, hoàn cảnh khó khăn do đó không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về vật chứng vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định;

01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC là phương tiện phạm tội có giá trị nhỏ. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000đồng thu lợi bất chính. 01 xe môtô biển số 93L1–439.48 quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của ông Trần Văn M, bị cáo V sử dụng làm phương tiện phạm tội ông M không biết, do đó cần trả lại cho ông Trần Văn M.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đối với Tạ Thị Thu H sinh ngày 03/4/2006 là người Vũ nhờ giao 01 gói ma túy được gói trong tờ tiền 2.000 đồng cho Đào Xuân T và lấy 300.000 đồng, tuy nhiên H không biết có ma túy trong tờ tiền 2.000 đồng nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Đào Xuân T là người nghiện ma túy, mua ma túy của V để sử dụng; T chưa có tiền án, tiền sự. Công an huyện Đ đã ra quyết định xử phạt hành chính nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

Đối với nguồn gốc ma túy mà V đã mua một người tên là “ I ” không rõ nhân thân lý lịch, chưa xác minh làm rõ nên chưa có căn cứ xử lý.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo V phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy”.

p dụng điểm b,e khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo V 07 ( bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/02/2021.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, được niêm phong trong 01 phong bì niêm phong có ký hiệu 80M2 của Phòng KTHS công an tỉnh P và 01 điện thoại nhãn hiệu HTC màu đen bạc.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000đ. Hoàn trả cho ông Trần Văn M 01 xe mô tô nhãn hiệu yamaha biển số 93L1-439.48. (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009846 ngày 22/4/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, người liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 54/2021/HSST

Số hiệu:54/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;