Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 34/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2021/HSST ngày 28/5/2021 theo Quyết đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021 đối với:

Bị cáo Đỗ Thế N, sinh năm 1983, tại xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Quốc V (đã chết) và bà Trần Thị Mi (đã chết); vợ: Đỗ Thị D; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2009; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/3/2021 đến ngày 23/3/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh Thái Bình.

(Bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên toà) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Trần Mạnh Đ, sinh năm 1993 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.

+ Chị Hồ Thị X, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: Phường N, quận C, thành phố Hà Nội.

- Người làm chứng:

+ Anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1990 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn V, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình.

+ Anh Phạm Văn T, sinh năm 1993 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn M, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.

+ Anh Phạm Trung H, sinh năm 1991 (vắng măt). Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 15 ngày 18/3/2021, tại nhà của Đỗ Thế N ở thôn Đ, xã Đ, huyện T, Đồn biên phòng Cửa Lân phối hợp với Công an huyện T phát hiện bắt quả tang Đỗ Thế N có hành vi bán trái phép 01 đoạn ống nhựa màu tím được hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất tinh thể trong suốt (ký hiệu M1) cho Trần Mạnh Đ với giá 500.000 đồng, đi cùng với Đ có Phạm Văn Đ. Qua giám định 01 đoạn ống nhựa màu tím được hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất tinh thể trong suốt là ma túy (loại Methamphetamine) có khối lượng 0,0386 gam. Ngoài ra Ncòn tàng trữ 32 đoạn ống nhựa bên trong đều chứa ma túy (loại Methamphetamine) có tổng khối lượng 6,0972 gam ma túy mục đích để bán kiếm lời.

Quá trình điều tra bị cáo Đỗ Thế N khai nhận: Do cần tiền tiêu xài nên khoảng 08 giờ ngày 16/3/2021, N bắt taxi đi từ nhà sang huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng để tìm mua ma túy đá về bán lại kiếm lời. Khi đi qua cầu sông Hóa thuộc địa phận huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, N xuống xe, gặp và mua của 01 người đàn ông khoảng 50 tuổi, không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể 01 túi nylon bên trong chứa chất tinh thể trong suốt với giá 2.000.000 đồng rồi đi về nhà. Khi về đến nhà, N lấy số ma túy đá vừa mua được chia vào 33 đoạn ống nhựa nhiều màu sắc khác nhau, hàn kín hai đầu lại sau đó cất 18 đoạn ống nhựa vào 01 chiếc tất màu trắng có sọc màu xám, 01 đoạn cho vào chiếc tất màu đen có sọc màu trắng vàng và 14 đoạn còn lại cho vào 01 chiếc tất đen có sọc màu trắng vàng. Chiếc tất màu trắng N cầm theo bên người còn 02 chiếc tất còn lại N giấu trong tủ quần áo và ở khu vực bàn uống nước. Khoảng 09 giờ 30 ngày 18/3/2021, N đang ở nhà thì Trần Mạnh Đ sử dụng số điện thoại 0355.583.893 gọi đến số điện thoại 0969.207.683 của Nam đặt vấn đề hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá, N đồng ý và hẹn Đ đến nhà để giao dịch. Khoảng 30 phút sau, Đ đến nhà gặp N để mua bán ma túy còn Đ đứng chờ ngoài cổng. Đ đưa cho N 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, N nhận tiền rồi lấy từ túi quần phía trước bên trái đang mặc ra 01 đoạn ống nhựa màu tím có chứa chất tinh thể trong suốt màu trắng (là Methamphetamine) đưa lại cho Đ. Khi N và Đ đang giao dịch mua bán ma túy thì bị Đồn biên phòng Cửa Lân và Công an huyện T phát hiện bắt quả tang. Lực lượng chức năng đã đưa N, Đ và mời những người có liên quan về trụ sở UBND xã Đ để làm việc. Tại đây, Đức tự giác giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng; 01 đoạn ống nhựa màu tím bên trong có chứa chất tinh thể trong suốt và khai nhận là ma túy Đ vừa mua của N với giá 500.000 đồng mục đích để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra người N, thu giữ và quản lý: 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng là tiền N vừa bán ma túy cho Đ mà có;

01 chiếc tất màu trắng có sọc màu xám mở ra bên trong có 17 đoạn ống nhựa được hàn kín hai đầu bên trong tất cả các ống nhựa đều chứa chất tinh thể trong suốt (ký hiệu là M2). Nam khai bên trong 17 ống nhựa chứa ma túy đá N mua về mục đích để bán kiếm lời; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng đã qua sử dụng, 01 ví giả da màu đen đã cũ bên trong có 15.757.000 đồng. Lực lượng chức năng đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý và niêm phong số vật chứng nêu trên trước sự chứng kiến của N, Đ và những người có liên quan.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Thế N tại thôn Đ, xã Đ, huyện T, Đồn biên phòng Cửa Lân còn phát hiện, thu giữ tại mặt bàn trong phòng khách chỗ ở của N: 01 cân tiểu ly màu đen đã qua sử dụng; 01 chai nhựa màu trắng trong suốt có 01 lỗ gắn ống nhựa màu trắng vàng, nắp màu xanh có gắn đoạn ống nhựa màu hồng;

01 tất màu đen có sọc trắng vàng bên trong có 01 đoạn ống nhựa màu hồng được hàn kín hai đầu bên trong chứa chất tinh thể trong suốt (ký hiệu M3); 53 ống hút nhựa các loại màu trắng, xanh, tím, hồng đậm, hồng nhạt, cam, vàng. Thu tại ngăn dưới tủ đựng quần áo bên trái cửa vào phòng ngủ của N 01 tất màu đen có sọc màu trắng vàng bên trong có 14 đoạn ống nhựa đều được hàn kín hai đầu (trong đó có 06 đoạn ống nhựa màu vàng, 04 đoạn ống nhựa màu xanh, 03 đoạn ống nhựa màu hồng đậm và 01 đoạn ống nhựa màu cam) bên trong tất cả các ống nhựa đều chứa chất tinh thể trong suốt (ký hiệu M4).

Vật chứng của vụ án: Lực lượng chức năng đã lập biên bản quản lý và niêm phong vật chứng của vụ án gồm: 33 đoạn ống nhựa nhiều màu sắc khác nhau, hàn kín hai đầu lại; 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng; 01 điện thoại di động Nokia màu đen; 01 tất màu trắng có sọc màu xám, 02 tất màu đen có sọc màu trắng vàng, 01 cân tiểu ly màu đen đã qua sử dụng, 53 ống hút nhựa nhiều màu, 01 ví màu đen đã cũ, 01 chai nhựa màu trắng trong suốt có một lỗ gắn ống nhựa màu trắng vàng, nắp màu xanh có gắn đoạn ống nhựa màu hồng và số tiền 16.257.000 đồng.

Kết quả giám định: Tại bản Kết luận giám định số 90/KLGĐ-PC09 ngày 19/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0386 gam (Không phẩy không nghìn ba trăm tám mươi sáu gam); Mẫu vật trong phong bì ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 4,1601 gam (Bốn phẩy một nghìn sáu trăm linh một gam); Mẫu vật trong phong bì ký hiệu M3 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0386 gam (Không phẩy không nghìn ba trăm tám mươi sáu gam); Mẫu vật trong phong bì ký hiệu M4 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,8985 gam (Một phẩy tám nghìn chín trăm tám mươi lăm gam) Methamphetamine STT: 323, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 và Nghị định 60/2020/NĐ- CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ.

Tại bản Cáo trạng số 33/CT-VKSTH, ngày 27/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Thái Bình đã truy tố Đỗ Thế N về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Thế N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

- Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đỗ Thế N mức án từ 07 (Bẩy) năm đến 07 (Bẩy) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/3/2021, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đề nghị các vấn đề khác có liên quan của vụ án.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến, không có tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, không khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội cải tạo, sửa chữa sai lầm sớm trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hồ Thị X, tại phiên tòa chị X đề nghị được xin lại số tiền 15.757.000đồng chị gửi bị cáo Nam giữ hộ mà Công an đã thu giữ. Ngoài ra chị X không có tranh luận gì và cũng không có ý kiến khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Thế N tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra cũng như trong giai đoạn truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Đồn Biên phòng Cửa Lân lập hồi 10 giờ 15 ngày 18/3/2021 tại Ủy ban nhân dân xã Đ.

- Các biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Đồn Biên phòng Cửa Lân lập cùng ngày 18/3/2021 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T.

- Các biên bản kiểm tra điện thoại do Đồn Biên phòng Cửa Lân lập cùng ngày 18/3/2021 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T.

- Biên bản khám xét nhà ở, đồ vật của Đỗ Thế N do Đồn Biên phòng Cửa Lân lập hồi 16 giờ 30 ngày 18/3/2021 tại nơi ở của Đỗ Thế N tại thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.

- Bản kết luận giám định số 90/KLGĐ-KTHS ngày 19/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Lời khai của những người làm chứng là anh Phạm Minh T sinh năm 1993 trú tại thôn M; anh Phạm Trung H sinh năm 1991 trú tại thôn T, đều thuộc xã Đ và anh Phạm Văn Đ sinh năm 1990 trú tại thôn V, xã N, huyện T.

- Lời khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Hồ Thị X sinh năm 1981 trú tại số nhà 7H, tầng 7, Khu chung cư Viện chiến lược Bộ Công an, phường N, quận C, thành phố Hà Nội và anh Trần Mạnh Đ sinh năm 1993 trú tại thôn Thanh Lâm, xã Đ, huyện T.

Xét thấy các tài liệu, chứng cứ nêu trên phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo Đỗ Thế N về địa điểm, thời gian, hành vi phạm tội.

[3] Đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Ma túy là chất độc hại gây nghiện, nó hủy hoại sức khỏe của con người, làm suy thoái nòi giống, là nguyên nhân lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS đồng thời cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp tài sản, cướp tài sản, cướp giật tài sản…, vì vậy mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm các hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Hành vi Mua bán trái phép chất ma túycủa bị cáo là rất nghiêm trọng thể hiện thách thức với xã hội, chống đối pháp luật, đi ngược lại với sự cố gắng của các cấp chính quyền, các cơ quan bảo vệ pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo là cố ý chỉ vì hám lợi, muốn có tiền tiêu xài nhưng không bằng sức lao động chân chính của mình bị cáo đã bán ma túy cho người khác để hôm nay phải chịu sự phán xét của pháp luật về hành vi sai trái của mình. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bị cáo buộc phải nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Do đó Hội đồng xét xử cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cần áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi mà bị cáo đã gây ra. Có như vậy mới thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật nước ta và có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cở sở xác định: Khoảng 10 giờ ngày 18/3/2021, tại nhà của Đỗ Thế N ở thôn Đ, xã Đ, huyện T, Đồn biên phòng Cửa Lân phối hợp với Công an huyện T phát hiện bắt quả tang Đỗ Thế N có hành vi bán trái phép 01 đoạn ống nhựa bên trong chứa chất tinh thể trong suốt là ma túy (loại Methamphetamine) có khối lượng 0.0386 gam cho Trần Mạnh Đ lấy 500.000 đồng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Thế N, Đồn biên phòng Cửa Lân và Cơ quan điều tra còn thu giữ 32 đoạn ống nhựa bên trong đều chứa ma túy (loại Methamphetamine) có tổng khối lượng 6,0972 gam, Nam khai nhận đây là ma túy Nam mua về với mục đích để bán kiếm lời. Tổng khối lượng ma túy thu giữ trong vụ án là: 6,1358 gam. Hành vi của bị cáo đã phạm tội: "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điều 251: Tội Mua bán trái phép chất ma túy:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người dưới 16 tuổi;

g) Qua biên giới;

h) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;

i) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

k) Lá cây cooca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá; rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

n) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

o) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này;

q) Tái phạm nguy hiểm.

…………… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy điều kiện, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, vợ bị cáo không có nhà, bị cáo còn nuôi 02 con nhỏ nên không áp dụng dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy còn lại sau giám định là 5,6129 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định cùng bao gói trong phong bì hoàn trả số 90/KLGĐ-KTHS, xác định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, mua bán và lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 16.257.000 đồng thu của Đỗ Thế N gồm 500.000đồng do bán ma túy cho Trần Mạnh Đ mà có và 15.757.000đồng là tiền mà chị Hồ Thị X (bạn Nam) nhờ Nam giữ hộ . Hội đồng xét xử xác định số tiền 500.000đồng là số tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với số tiền 15.757.000đồng là tài sản hợp pháp của chị Hồ Thị X, nên cần trả lại cho chị X là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 tất màu trắng có sọc màu xám, 02 tất màu đen có sọc màu trắng vàng, 01 cân tiểu ly màu đen đã qua sử dụng, 53 ống hút nhựa nhiều màu, 01 chai nhựa màu trắng trong suốt có một lỗ gắn ống nhựa màu trắng vàng, nắp màu xanh có gắn đoạn ống nhựa màu hồng là công cụ để bị cáo chia nhỏ ma túy mua được để bán cho người khác nên cần tịch thu, tiêu hủy. Đối 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng là công cụ phương tiện để bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 01 ví màu đen đã cũ. Xác định 01 điện thoại di động Nokia màu đen là tài sản hợp pháp của anh Trần Mạnh Đ, xác định 01 ví màu đen đã cũ là tài sản hợp pháp của bị cáo nên cần trả lại điện thoại cho anh Đức và trả lại ví cho bị cáo là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về các vấn đề khác của vụ án: Về nguồn gốc 6,1358 gam Methamphetamine mà Đồn biên phòng Cửa Lân thu giữ của Đỗ Thế N, Nam khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể tại khu vực cầu sông Hóa thuộc địa phận huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra không có đủ căn cứ điều tra, xác minh làm rõ người đã bán ma túy cho Nam để xử lý theo pháp luật.

Trong vụ án này, Trần Mạnh Đ là người mua ma túy của Đỗ Thế N với mục đích để sử dụng, xét thấy trọng lượng Methamphetamine 0.0386 gam, bản thân Trần Mạnh Đ không có tiền án, tiền sự. Do vậy, không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Đồn biên phòng Cửa Lân ra quyết định xử phạt hành chính đối với Trần Mạnh Đ là phù hợp.

Đối với anh Phạm Văn Đ là người đi cùng Trần Mạnh Đ đến nhà Đỗ Thế N ngày 18/3/2021 tuy nhiên anh Đình không biết, không tham gia giúp sức, xúi giục hay góp tiền để mua ma túy cùng với Đ; các anh Phạm Minh T, anh Phạm Trung H, chị Hồ Thị X là những người có mặt tại nhà của Đỗ Thế N khi cơ quan chức năng vào bắt quả tang tuy nhiên tài liệu điều tra xác định anh Tiền, anh Hiếu, chị X không biết việc mua bán ma túy giữa N và Đ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T không xử lý đối với anh Đ, anh T, anh H và chị X là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo Đỗ Thế N phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2, khoản 3 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Thế N phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đỗ Thế N 07 (Bẩy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/3/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định 5,6129 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định cùng bao gói trong phong bì hoàn trả số 90/KLGĐ-KTHS ngày 19/3/2021 và 01 tất màu trắng có sọc màu xám, 02 tất màu đen có sọc màu trắng vàng, 01 cân tiểu ly màu đen đã qua sử dụng, 53 ống hút nhựa nhiều màu, 01 chai nhựa màu trắng trong suốt có một lỗ gắn ống nhựa màu trắng vàng, nắp màu xanh có gắn đoạn ống nhựa màu hồng.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng theo ủy nhiệm chi lập ngày 28/5/2021 tại kho bạc nhà nước huyện T và 01 điện thoại di động Iphone 6 màu trắng.

Trả lại chị Hồ Thị X số tiền 15.757.000đồng theo ủy nhiệm chi lập ngày 28/5/2021 tại kho bạc nhà nước huyện T. Trả lại cho anh Trần Mạnh Đ 01 điện thoại di động Nokia màu đen.Trả lại cho bị cáo 01 ví màu đen đã cũ.

(Các vật chứng trên đã được Cơ quan điều tra Công an huyện T thu giữ, chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện T quản lý theo biên bản giao ngày 28/5/2021).

5. Về án phí: Bị cáo Đỗ Thế N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và chị Hồ Thị X có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 24/6/2021.

Anh Trần Mạnh Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma tuý số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;