TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 296/2024/HS-ST NGÀY 26/09/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 267/2024/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 270/2024/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Ngọc Kỳ D. Sinh ngày: 02/4/2000, Tại tỉnh Đắk Lắk Nơi thường trú: Tổ dân phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Số A đường Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông Nguyễn Ngọc Anh L, sinh năm 1978 và con bà Võ Thị Mông A, sinh năm:1979; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình. Bị cáo chưa có chồng, con. Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B, từ ngày 22/01/2024 cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Bà Nguyễn S - Sinh năm: 1995 (Vắng mặt). Nơi thường trú: Thôn I, xã T, huyện B, tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Số B đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lạc Thanh H - Sinh năm: 1994 (Có mặt). Địa chỉ: Số A đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Bà Vũ Thị Mỹ H1 - Sinh năm: 1985 (Vắng mặt). Địa chỉ: Số B đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Bà Lê Thị M - Sinh năm: 1949 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số A đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
4. Bà Lê Nguyễn Kiều O - Sinh năm: 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số I đường Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
5. Ông Bùi Văn C - Sinh năm: 1981 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố F, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Ngọc Kỳ D và chị Nguyễn S là bạn bè quen biết với nhau. Ngày 10/01/2024, D và chị S bị Phòng C1 Công an tỉnh D triệu tập làm việc vì có liên quan đến hoạt động mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 12/01/2024, D được gia đình bảo lĩnh về nhà còn chị S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh D tạm giữ hình sự về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Khi biết D được gia đình bảo lĩnh, chị S đã đưa cho D 01 túi giấy màu trắng bên trong có các tài sản gồm: 06 lắc tay bằng vàng, loại vàng Sài Gòn 98%; 01 sợi dây chuyền và mặt dây chuyền bằng vàng, loại vàng Sài Gòn 98%; 04 hoa tai bằng vàng có đính đá màu trắng, loại vàng Sài Gòn; 01 nhẫn vàng có đính đá (là các tài sản không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của chị S) và nhờ D mang giúp các tài sản về cho gia đình chị S, thì D đồng ý. Sau đó, D mang theo số vàng của chị S về phòng trọ, ở địa chỉ: 1 Đ, phường T, thành phố B, cất giữ. Lúc này, D nảy sinh ý định chiếm đoạt các tài sản trên của chị S, bán lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 14 giờ ngày 12/01/2024, D mang 06 lắc tay bằng vàng, 01 sợi dây chuyền và mặt dây chuyền bằng vàng và 04 hoa tai bằng vàng của chị S đi đến tiệm V, địa chỉ: 1 Đ, phường T, thành phố B, gặp chị Vũ Thị Mỹ H1, trú tại: B N, phường T, thành phố B (là chủ của hàng) để bán. Do không biết đây là tài sản phạm tội mà có, chị H1 đồng ý mua với số tiền 229.300.000 đồng rồi bán lại cho khách (chưa rõ nhân thân, lai lịch). Đến ngày 13/01/2024, D mang theo 01 nhẫn vàng có đính đá chiếm đoạt của chị S còn lại đến tiệm C2, địa chỉ: D Đ, phường T, thành phố B, do bà Lê Thị M, trú tại: A N, phường T, thành phố B, làm chủ để bán. Do không biết đây là tài sản phạm tội mà có nên bà M đã đồng ý mua với giá 1.700.000 đồng. Riêng 01 túi giấy màu trắng để bọc số tài sản của chị S, D đã vứt bỏ (chưa rõ địa điểm). Tổng số tiền D bán các tài sản chiếm đoạt của chị S có được là 231.000.000 đồng. Số tiền 231.000.000 đồng có được, D sử dụng: Mua 01 điện thoại di động hiệu IP 15 Plus, màu hồng, tại tiệm mua bán điện thoại di động Minh H2, địa chỉ: I Đ, phường T, thành phố B, do chị Lê Nguyễn Kiều O, làm chủ với giá 24.500.000 đồng; trả cho anh Bùi Văn C, trú tại: Tổ dân phố F, phường T, thành phố B (chủ tiệm S2, địa chỉ: A N, phường T, thành phố B) số tiền 2.176.000 đồng là tiền sửa xe mô tô D nợ của anh C; chuộc 01 lắc tay của D (là tài sản D cầm cố trước đó), tại tiệm cầm đồ Bích Ly với số tiền 3.000.000 đồng; lên mạng xã hội Facebook mua 02 khung gỗ làm giường, 02 tủ gỗ, 01 tấm gương, 01 ghế ngồi bằng kim loại với tổng số tiền 6.000.000 đồng; mua 12 lọ sơn móng tay hiệu Minivay, 02 bộ móng giả hiệu HSM với tổng số tiền 1.500.000 đồng và sử dụng số tiền 14.324.000 đồng để tiêu xài cá nhân. Số tiền 179.500.000 đồng còn lại từ việc bán tài sản chiếm đoạt của chị S, D cất giấu tại phòng trọ của D. Sau khi phát hiện bị D chiếm đoạt tài sản, chị S đã làm đơn trình báo gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ để xử lý. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ đã chuyển đơn của chị S đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, để giải quyết theo thẩm quyền.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 67/KL-HDĐGTS ngày 22/3/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố B, kết luận:
- 06 lắc tay bằng vàng không có hoa văn, họa tiết là loại vàng Sài Gòn 98% có khối lượng 112,5g, trị giá: 180.000.000 đồng;
- 01 sợi dây chuyền và mặt dây chuyền bằng vàng, loại vàng Sài Gòn 98%, khối lượng 48,75g, trị giá 46.800.000 đồng;
- 04 bông hoa tai bằng vàng có đính đá màu trắng, loại vàng S, mã loại 610, khối lượng 2,625g, trị giá: 2.520.000 đồng;
- 01 chiếc nhẫn vàng có đính đá, mã loại 610, khối lượng, 2,0625g, trị giá: 1.980.000 đồng;
Tổng trị giá tài sản là 231.300.000 đồng Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D khai: Hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng.
Cáo trạng số 212/CT-VKS TP.BMT ngày 04 tháng 7 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân TP. Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Buôn Ma Thuột giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng, phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ khoản 3 Điều 175; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.
Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Về phần dân sự: Quá trình điều tra, chị Nguyễn S yêu cầu bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D phải có trách nhiệm bồi thường thêm cho chị S số tiền 51.000.000 đồng, là trị giá các tài sản bị cáo D chiếm đoạt của chị S còn thiếu. Bị cáo D đồng ý bồi thường cho chị S số tiền 51.000.000 đồng nên cần ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo D và chị S, buộc bị cáo D tiếp tục bồi thường cho chị S số tiền 51.000.000 đồng, khấu trừ số tiền 5.000.000 đồng mà bà Lạc Thanh H đã thay mặt bị cáo D giao nộp cho Cơ quan điều tra để bồi thường cho chị S, bị cáo D còn phải tiếp tục bồi thường cho chị S số tiền 46.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, bà Lạc Thanh H đã thay mặt bị cáo D hoàn trả cho bà Lê Thị M số tiền 1.800.000 đồng là tiền bà M mua 01 chiếc nhẫn vàng S của bị cáo D. Bà M đã nhận đủ số tiền trên, không yêu cầu gì thêm.
Chị Vũ Thị Mỹ H1 không yêu cầu bị cáo D phải hoàn trả gì nên không đề cập giải quyết.
Đối với 01 tấm kính có khung bằng sắt, viền vải màu hồng, kích thước (1,6x0,6x0,003)m; 01 ghế có khung bằng kim loại, mặt ghế bọc nệm vải, màu cam; 02 tủ làm bằng gỗ ép, kích thước mỗi tủ (1,4x0,6x0,45)m; 02 tấm sàn được ghép bằng các thanh gỗ cao su, kích thước mỗi tấm (2m0,8x0,12)m; 02 bộ móng tay bằng nhựa hiệu HSM; 12 lọ sơn móng tay hiệu Vinivay; 01 điện thoại di động hiệu IP 15 Plus, màu hồng. Quá trình điều tra xác định, đây là các tài sản của bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Đối với số tiền 179.500.000 đồng là số tiền còn lại sau khi bị cáo D bán các tài sản chiếm đoạt của chị S còn lại. Quá trình điều tra, chị S có nguyện vọng xin được nhận lại số tiền trên nên cần trả lại cho chị S nhận quản lý, sử dụng và tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Đối với 01 nhẫn vàng có đính đá, mã loại 610, khối lượng, 2,0625g là tài sản của chị Nguyễn S nên trả cho chị S nhận quản lý, sử dụng.
Đối với số tiền 5.000.000 đồng là tiền bà Lạc Thanh H thay mặt bị cáo D giao nộp để bồi thường một phần hậu quả cho chị S. Do đó, cần trả lại cho chị S nhận quản lý, sử dụng số tiền 5.000.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để phục vụ công tác xét xử.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận và không bào chữa cho mình, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác ngày 12/01/2024, tại địa bàn thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D là bạn của chị Nguyễn S, được chị S nhờ mang giúp các tài sản của chị S, gồm: 06 lắc tay bằng vàng Sài Gòn 98% trị giá 180.000.000 đồng; 01 sợi dây chuyền và mặt dây chuyền bằng vàng Sài Gòn 98% trị giá 46.800.000 đồng; 04 hoa tai bằng vàng S có đính đá màu trắng trị giá 2.520.000 đồng; 01 nhẫn vàng có đính đá trị giá 1.980.000 đồng về giao cho gia đình chị S. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, bị cáo D không giao các tài sản của chị S về cho gia đình chị S mà chiếm đoạt mang đi bán và cầm đồ được tổng số tiền 231.000.000 đồng. Theo kết luận định giá, tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của chị S là 231.300.000 đồng. Bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội của mình theo quy định tại khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự.
[3] Viện kiểm sát nhân dân TP. Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 3 Điều 175 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
...
3. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.” Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của bị hại, đồng thời còn gây mất ổn định trật tự, trị an xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, buộc phải biết hành vi lợi dụng lòng tin để chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi mà bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của chị D. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000 đồng. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Không.
Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội.
[5] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Luật tố tụng Hình sự; Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật Dân sự.
Về trách nhiệm dân sự:
Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D phải bồi thường cho bị hại Nguyễn S số tiền 231.300.000 đồng trị giá tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại.
Ghi nhận việc bị cáo tự nguyện giao nộp số tiền 179.500.000 đồng để bồi thường thiệt hại về tài sản cho bị hại Nguyễn Sương.
Ghi nhận việc bà Lạc Thanh H đã tự nguyện thay bị cáo bồi thường cho chị Nguyễn S số tiền 5.000.000 đồng.
Ghi nhận việc bà Lạc Thanh H tự nguyện thay bị cáo bồi thường cho bà Lê Thị M số tiền 1.800.000 đồng và bà Lê Thị M không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Bà Vũ Thị Mỹ H1 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đề cập xử lý.
Xử lý vật chứng:
Đối với 01 tấm kính có khung bằng sắt, viền vải màu hồng, kích thước (1,6x0,6x0,003)m; 01 ghế có khung bằng kim loại, mặt ghế bọc nệm vải, màu cam; 02 tủ làm bằng gỗ ép, kích thước mỗi tủ (1,4x0,6x0,45)m; 02 tấm sàn được ghép bằng các thanh gỗ cao su, kích thước mỗi tấm (2m0,8x0,12)m; 02 bộ móng tay bằng nhựa hiệu HSM; 12 lọ sơn móng tay hiệu Vinivay; 01 điện thoại di động hiệu IP 15 Plus, màu hồng, là tài sản của bị cáo tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Đối với 179.500.000 đồng là tiền của bị cáo bán vàng chiếm đoạt được của bị hại và bị hại Nguyễn S có nguyện vọng muốn được nhận số tiền này để bồi thường đối với tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại, bị cáo cũng đồng ý với yêu cầu này. Do đó cần tiếp tục tạm giữ số tiền 179.500.000 đồng này để đảm bảo công tác thi hành án.
Ghi nhận việc bị cáo tự nguyện giao nộp số tiền 179.500.000 đồng để bồi thường thiệt hại về tài sản cho bị hại Nguyễn S.
Đối với 01 nhẫn vàng có đính đá, mã loại 610, khối lượng 2,0625g là tài sản của chị Nguyễn S nên cần trả lại cho chị Nguyễn S là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.
[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 175; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D 06 (Sáu) năm 06 (S1) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 22/01/2024
Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585 và Điều 589 Bộ luật Dân sự.
Xử lý vật chứng:
Đối với 01 tấm kính có khung bằng sắt, viền vải màu hồng, kích thước (1,6x0,6x0,003)m; 01 ghế có khung bằng kim loại, mặt ghế bọc nệm vải, màu cam; 02 tủ làm bằng gỗ ép, kích thước mỗi tủ (1,4x0,6x0,45)m; 02 tấm sàn được ghép bằng các thanh gỗ cao su, kích thước mỗi tấm (2m0,8x0,12)m; 02 bộ móng tay bằng nhựa hiệu HSM; 12 lọ sơn móng tay hiệu Vinivay; 01 điện thoại di động hiệu IP 15 Plus, màu hồng, là tài sản của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.
Đối với 179.500.000 đồng là tiền của bị cáo bán vàng chiếm đoạt được của bị hại, bị cáo tự nguyện giao nộp số tiền 179.500.000 đồng để bồi thường thiệt hại về tài sản cho bị hại Nguyễn S và bị hại Nguyễn S có nguyện vọng muốn được nhận số tiền này để bồi thường đối với tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại. Do đó cần tiếp tục tạm giữ số tiền 179.500.000 đồng này để đảm bảo công tác thi hành án.
Đối với 01 nhẫn vàng có đính đá, mã loại 610, khối lượng 2,0625g là tài sản của chị Nguyễn S nên cần trả lại cho chị Nguyễn S là chủ sở hữu nhận quản lý, sử dụng là phù hợp.
(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/8/2024 giữa Công an thành phố B và Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột).
Về trách nhiệm dân sự:
Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D phải bồi thường cho bị hại Nguyễn S số tiền 231.300.000 đồng trị giá tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại.
Ghi nhận việc bị cáo tự nguyện giao nộp số tiền 179.500.000 đồng để bồi thường thiệt hại về tài sản cho bị hại Nguyễn S Ghi nhận việc bà Lạc Thanh H đã tự nguyện thay bị cáo bồi thường cho chị Nguyễn S số tiền 5.000.000 đồng.
Ghi nhận việc bà Lạc Thanh H tự nguyện thay bị cáo bồi thường cho bà Lê Thị M số tiền 1.800.000 đồng và bà Lê Thị M không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Bà Vũ Thị Mỹ H1 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không đề cập xử lý.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Ngọc Kỳ D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 2.340.000 đồng (Hai triệu ba trăm bốn mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 296/2024/HS-ST
| Số hiệu: | 296/2024/HS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về