TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 635/2024/HS-ST NGÀY 26/09/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 09 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 457/2024/TLST- HS ngày 26 tháng 08 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 563/2024/ QĐXXST- HS ngày 30 tháng 08 năm 2024, đối với:
* Bị cáo Trần Văn T; tên gọi khác: không; sinh năm 1999, tại Nghệ An; nơi cư trú: xóm C, xã N, T, Nghệ An; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Trần Văn T1 và bà Nguyễn Thị H; gia đình có 03 anh em (bị cáo là con thứ hai); chưa có vợ, con; chưa có tiền án, tiền sự; bị bắt và tạm giam từ ngày 05/12/2023, tại Trại tạm giam số 2- Công an Thành phố H; có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo (theo chỉ định) có bà Phạm Thị H1; luật sư của Công ty L, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H; 0913 545 993; vắng mặt.
* Người bị hại: vợ chồng anh K Tuấn V (sinh năm 1993) và chị Dương Thị Phương T2 (sinh năm 1992); địa chỉ: xóm A, xã Y, T, Hà Nội; anh V có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ông Trần Văn T1; sinh năm 1971; địa chỉ: xóm C, xã N, thị xã T, Nghệ An; có mặt.
- Anh Trần Văn T3; sinh năm 1990; địa chỉ: thôn M, xã T, B, Vĩnh Phúc; có mặt.
- Chị Chu Thị H2; sinh năm 1998; HKTT: xóm 5b, xã N, thị xã T, Nghệ An; nơi ở: số E ngách D ngõ B Đ, phường Đ, H, Hà Nội; có đơn xin vắng mặt.
* Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức T4; sinh năm 1998; địa chỉ: số G N, phường L, Đ, Hà Nội; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 21/3/2023, vợ chồng anh K Tuấn V và chị Dương Thị Phương T2 mua của anh Nguyễn Đức T4 chiếc xe ô tô Vinfast Lux A2.0 màu trắng (biển kiểm soát: 30H-...) với giá là 700.000.000 đồng, đã đăng ký đứng tên K Tuấn V ngày 30/3/2023 (bút lục 3xx). Do có quan hệ thân quen từ trước nên ngày 22/3/2023, Trần Văn T hỏi mượn chiếc xe ô tô nêu trên của vợ chồng anh V để sử dụng trong thời hạn 07 ngày, anh V đồng ý, giao xe cho T theo thỏa thuận miệng và không lập văn bản. T sử dụng xe đến cuối tháng 03 năm 2023 thì nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản để trả nợ và chỉ tiêu cá nhân; T nhờ chị Chu Thị H2 (bạn gái của T) mang xe đi cầm cố để lấy tiền. Do thấy T thường xuyên sử dụng xe và nói là xe của T mới mua lại, đang trong quá trình làm thủ tục sang tên nên chị H2 tin tưởng và liên hệ với anh Trần Văn T3 để cầm cố xe ô tô nêu trên; anh T3 cho H2 vay 500.000.000 đồng và yêu cầu viết 01 “Giấy biên nhận tiền đặt cọc mua xe” để ngày 28/3/2023 để làm tin. Từ ngày 28/3/2023 đến ngày 30/3/2023, anh T3 đã đưa cho chị H2 tổng cộng là 500.000.000 đồng, bao gồm: chuyển khoản 388.000.000 đồng từ tài khoản Ngân hàng M số 0988863xxx của anh T3 đến tài khoản Ngân hàng T6 số 19036159600xxx và chuyển 10.000.000 đồng đến tài khoản Ngân hàng M số 6199919991xxx đều của chị H2; đưa tiền mặt là 102.000.000 đồng. Chị H2 đã chuyển lại toàn bộ tiền cho T: chuyển khoản 490.000.000 đồng đến tài khoản Ngân hàng V2 số 9343448xxx của T và đưa 10.000.000 đồng tiền mặt. T đã sử dụng số tiền này để trả nợ và chỉ tiêu cá nhân hết.
Ngày 27/4/2023, anh V yêu cầu trả xe thì T cho biết đã mang xe đi cầm cố để vay tiền và không có khả năng trả lại xe nên anh V đã đến Cơ quan Công an trình báo. Sau khi biết thông tin về sự việc thì ngày 04/9/2023, anh Trần Văn T3 đã tự nguyện giao nộp chiếc xe ô tô nêu trên cho Cơ quan điều tra.
Tại Kết luận định giá tài sản số 219 ngày 26/9/2023, Hội đồng định giá tài sản kết luận (bút lục 330- 336): 01 ô tô nhãn hiệu Vinfast Lux A2.0 màu trắng, Biển kiểm soát: 30H-..., đã qua sử dụng, trị giá: 600.000.000 đồng.
Đối với Chu Thị H2 (bạn gái của T): Do Trần Văn T nói mới mua xe, đang làm thủ tục sang tên và cần đặt xe để lấy tiền giải quyết công việc nên chị H2 tin tưởng và đặt xe giúp T, không hướng lợi gì và cũng không biết gì về việc T mượn xe ô tô của anh Khúc Tuấn VI; vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Chu Thị H2.
Đối với Trần Văn T3: Do có mối quan hệ quen biết với Chu Thị H2 từ trước và không biết gì về việc T chiếm đoạt tài sản nên khi chị H2 đặt vấn đề vay tiền thì Thường tin tưởng, cho vay 500.000.000 đồng và yêu cầu viết giấy đặt xe để làm tin. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý về hình sự đối với Trần Văn T3.
Ngày 30/9/2023, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng và trao trả cho anh Khúc T5 V1 chiếc xe ô tô nêu trên; người bị hại Khúc Tuấn V1 đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường bổ sung và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho Trần Văn T.
Ngày 13/7/2024 (bút lục 383), ông Trần Văn T1 (bố của Trần Văn T) đã bồi hoàn trực tiếp cho anh Trần Văn T3 là 500.000.000 đồng (số tiền cho vay); anh T3 đã nhận đủ tiền, không có yêu cầu bổ sung và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho Trần Văn T.
* Tại Cáo trạng số 432/CT- VKS- P3 ngày 22/8/2024, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội truy tố Trần Văn T về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự.
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội luận tội đối với bị cáo Trần Văn T tại phiên tòa sơ thẩm, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 4 Điều 175, các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, các Điều 38 và 54 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 07 năm đến 08 năm tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; tài sản đã được thu hồi trả lại người bị hại, bị cáo đã thực hiện việc bồi hoàn, các bên không có tranh chấp nên đề nghị không xem xét, giải quyết về trách nhiệm dân sự trong vụ án.
- Bị cáo Trần Văn T tự bào chữa với nội dung: Do nợ nằm và làm ăn thua lỗ nên bị cáo đã cầm cố xe ô tô của người bị hại để vay tiền nhưng không có khả năng chuộc lại xe để trả lại cho anh K Tuấn V1; bị cáo đã tác động gia đình để trả lại tiền cho anh Trần Văn T3; bị cáo ăn năn hối cải, xin lỗi người bị hại và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan điều tra Công an Thành phố H và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Người bào chữa cho bị cá o Trần Văn T vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo Trần Văn T có quan điểm: Hành vi của bị cáo là rõ ràng nên bị cáo sẽ tự bào chữa cho mình; bị cáo và gia đình không có khả năng mời người bào chữa; bị cáo đồng ý việc người bào chữa theo chỉ định vắng mặt và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục phiên tòa vắng mặt người bào chữa. Vì vậy, Hội đồng xét xử ghi nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội, quyết định tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Lời khai nhận của bị cáo Trần Văn T tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, người bị hại, đương sự và người làm chứng, phù hợp vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án- Đủ cơ sở kết luận: Ngày 22/3/2023 (trên địa bàn quận H, Thành phố Hà Nội), Trần Văn T đã mượn chiếc xe ô tô nhãn hiệu Vinfast Lux A2.0 (Biển kiểm soát: 30H-...) của anh Khúc T5 V1 để sử dụng trong thời hạn 07 ngày; do cần tiền trả nợ và chỉ tiêu cá nhân nên ngày 28/3/2023, T chiếm đoạt chiếc xe ô tô nêu trên (trị giá là 600.000.000 đồng), nhờ bạn gái là Chu Thị H2 đặt xe ô tô để vay anh Trần Văn T3 là 500.000.000 đồng, sử dụng chỉ tiêu hết cho các mục đích cá nhân. Hành vi của Trần Văn T đã phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 4 Điều 175 Bộ luật Hình sự; Cáo trạng truy tố bị cáo Trần Văn T về tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Điều 175 Bộ luật Hình sự quy định: “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiểm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.”
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn T là đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an tại địa phương và gây nên sự bất bình trong dư luận nhân dân nên cần xử phạt nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[5.1] Bị cáo Trần Văn T phạm tội độc lập, không có đồng phạm và không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; bị cáo “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả”, “có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội” và “ông, bà nội của bị cáo đều tham gia Kháng chiến, được tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhì”, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Trần Văn T theo quy định tại các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5.2] Đánh giá về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, trị giá tài sản đã chiếm đoạt, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, Hội đồng xét xử ghi nhận quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội trình bày tại phiên tòa về điều luật áp dụng và mức hình phạt đối với bị cáo Trần Văn T; đủ tác dụng để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung; thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và tự nguyện khắc phục hậu quả.
[5.3] Theo quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật Hình sự thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung; xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Trần Văn T.
[6] Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chị Chu Thị H2 (bạn gái của bị cáo) và anh Trần Văn T3 (cho vay tiền có thể chấp) đều không biết về hành vi phạm tội của bị cáo T và không hướng lợi; chưa đủ căn cứ để quy kết trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý đối với Chu Thị H2 và Trần Văn T3 là có căn cứ; Cáo trạng không truy tố nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Bị cáo Trần Văn T đã chiếm đoạt tài sản là chiếc xe ô tô trị giá 600.000.000 đồng; tài sản đã được thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu; người bị hại là vợ chồng anh Khúc Tuấn V1, chị Dương Thị Phương T2 không có yêu cầu bồi thường bổ sung; đương sự Trần Văn T3 đã nhận bồi hoàn là 500.000.000 đồng (cho vay có thể chấp) và không có yêu cầu gì về dân sự; ông Trần Văn T1 (bố của bị cáo) đã bồi hoàn cho anh T3 là 500.000.000 đồng và không yêu cầu hoàn trả; vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bồi hoàn và hoàn trả trong vụ án.
[8] Cơ quan điều tra đã thu giữ đối với tài sản do bị cáo đã chiếm đoạt và quyết định xử lý vật chứng, trả lại tài sản cho chủ sở hữu; Cơ quan điều tra còn thu giữ đối với các giấy tờ và tài liệu, được dùng để chứng minh tội phạm và giải quyết vụ án, được lưu giữ và đánh số bút lục, là bộ phận cấu thành trong hồ sơ vụ án; nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét, xử lý đối với các vật chứng trong vụ án.
[9] Bị cáo Trần Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người bị hại và đương sự có quyền kháng cáo theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Áp dụng khoản 4 Điều 175, các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 và Điều 38 Bộ luật Hình sự;
- Xử phạt bị cáo Trần Văn T 08 (tám) năm tủ; thời hạn chấp hành hình phạt tủ tính từ ngày 05/12/2023.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn T.
2. Người bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt; đương sự Trần Văn T3 đã nhận bồi hoàn theo yêu cầu; người bị hại và các đương sự không có tranh chấp hoặc yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về trách nhiệm dân sự trong vụ án.
3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Bị cáo Trần Văn T và người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Các đương sự là ông Trần Văn T1 và anh Trần Văn T3 có quyền kháng cáo phần Bản án có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Đương sự là chị Chu Thị H2 có quyền kháng cáo phần Bản án có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 635/2024/HS-ST
| Số hiệu: | 635/2024/HS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về