Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 21/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PÁC NẶM, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 21/2024/HS-ST NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn, Tòa án nhân dân huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2024/TLST-HS, ngày 29 tháng 8 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo:

Hoàng Văn T - Tên gọi khác: Không, sinh ngày 16 tháng 3 năm 2001 tại huyện P, tỉnh Bắc Kạn.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã B, huyện P, tỉnh Bắc Kạn. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; Con ông Hoàng Văn K, sinh năm 1967 và bà Sầm Thị Đ, sinh năm 1975; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không Tiền sự: 05.

Ngày 05/10/2022, bị Công an thị trấn C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn, xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tại Quyết định số 975/QĐ-XPHC.

Ngày 24/10/2023, bị Công an xã B, huyện P xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, tại Quyết định số 08/QĐ-XPHC.

Ngày 06/12/2023, bị Công an xã B, huyện P xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, tại Quyết định số 10/QĐ-XPHC.

Ngày 08/01/2024, bị UBND xã B, huyện P ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, tại Quyết định số 05/QĐ-XPTT.

Ngày 23/01/2024, bị Công an huyện P xử phạt số tiền 3.500.000 đồng về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tại Quyết định số 05/QĐ-XPHC.

Nhân thân: Ngày 26/8/2019 bị Công an huyện P, tỉnh Bắc Kạn xử phạt hành chính 2.500.000đ về hành vi cố ý gây thương tích tại Quyết định số 274/XPHC.

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bắc Ninh, địa chỉ tại xã N, huyện Q, tỉnh Bắc Ninh. Theo Quyết định số 03/QĐ-TA ngày 07/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Bị hại: Anh Triệu Vĩnh T1, sinh năm 2004 - Trú tại: Thôn C, xã X, huyện P, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Phương B - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh B. Có mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hoàng Văn N, sinh năm 1992. Địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện P, tỉnh Bắc Kạn Vắng mặt

2. Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1988. Địa chỉ: Tiểu khu C thị trấn C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 22/3/2024, Hoàng Văn T đang chơi game tại quán internet của anh Lý Văn T2, thôn Đ, xã B, huyện P thì thấy Triệu Vĩnh T1 sinh năm 2004, trú tại thôn C, xã X, huyện P cũng đang ngồi chơi game trong quán và thấy T1 đặt chìa khóa xe mô tô trên bàn trước mặt. T đi đến T1 hỏi mượn xe, mục đích để đi về nhà lấy đồ cá nhân thì T1 đồng ý và đưa chìa khóa xe cho T, trước khi đi T ghi số điện thoại của mình là số 0397.xxxx36 cho T1 để tiện liên lạc. Sau đó, T lấy xe mô tô nhãn hiệu HONDA, màu sơn đen, biển kiểm soát 97L1-xxxxx của T1 đang dựng ở sân trước cửa quán, điều khiển xe đi về nhà T tại thôn N, xã B, huyện P lấy đồ cá nhân, rồi quay lại chợ trung tâm xã B ngồi uống nước, thì nảy sinh ý định đi thị trấn C, huyện B chơi, nhưng T không nói cho T1 biết mà tự ý lấy xe đi tiếp. Trên đường đi, T vào trạm xăng mua xăng, khi mở cốp xe phát hiện chiếc ví trong cốp xe, bên trong có cả giấy đăng ký xe mô tô của T1, T cất lại vào trong cốp rồi điều khiển xe đi đến thị trấn C, huyện B chơi. Khoảng 17 giờ, khi đang ngồi uống nước tại khu vực gần Trung tâm Y tế huyện B, T gặp Hoàng Văn N, sinh năm 1992, trú tại thôn Bản Nà, xã N, huyện P, qua nói chuyện được biết N đang có ý định mua xe để phục vụ đi lại, nên T nảy sinh ý định bán chiếc xe của T1 cho N, vì thấy trong cốp xe có đủ giấy tờ đăng ký xe, T và N viết giấy tờ bán xe với giá là 5.500.000 đồng và thỏa thuận thời hạn 30 ngày T sẽ chuộc lại xe, sau 30 ngày nếu T không chuộc lại xe thì N có quyền bán chiếc xe cho người khác, T viết giấy bán xe đưa cho N giữ, sau đó N lấy xe đi về. Sau khi T vừa bán xe xong, T1 gọi điện thoại yêu cầu T mang xe về trả, nhưng T nói dối là chiếc xe đã bị Cảnh sát giao thông huyện B tạm giữ, khi nào T về đến sẽ trả giấy tờ cho T1. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T đi về đến xã B, huyện P và gọi điện thoại hẹn T1 ra khu vực quảng trường trung tâm xã B rồi đưa chiếc ví cho T1, T1 kiểm tra ví không thấy đăng ký xe nên hỏi thì T trả lời là giấy đăng ký xe cũng bị Cảnh sát giao thông tạm giữ. T1 đòi xem biên bản tạm giữ thì T trả lời không cầm theo, đã để ở nhà bạn tại xã N, huyện P và hẹn T1 đến ngày 29/3/2024 sẽ đi lấy lại xe về trả lại cho T1. Sau đó T về nhà ở thôn N, xã B, đến ngày 26/3/2024, T một mình đi đến tỉnh Bắc Ninh làm thuê và sống lang thang tại tỉnh Bắc Ninh, tiền bán xe T đều tiêu xài hết. Ngày 29/3/2024, T1 gọi điện thoại đòi xe thì T nói đang ở tỉnh Bắc Ninh không về lấy xe trả T1 được, sau đó T chặn liên lạc của T1. T1 không liên lạc được với T để đòi xe, nên ngày 27/5/2024 T1 đến trình báo đến Cơ quan chức năng đề nghị giải quyết vụ việc.

Ngày 04/6/2024, Cơ quan điều tra ban hành Yêu cầu định giá tài sản số 239/YC-CSDT để định giá tài sản đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 97L1-xxxxx.

Tại Kết luận định giá tài sản số 06/KL-HĐĐGTX ngày 24/6/2024, của UBND huyện P, kết luận: Tại thời điểm tháng 3/2024, chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave Anpha, màu đen, biển kiểm soát 97L1-xxxxx, đã qua sử dụng, trị giá 16.000.000 đồng.

Hoàng Văn T khai nhận: Sau khi mượn được xe của T1, do không có tiền tiêu sài, T đã bán xe cho Hoàng Văn N và đã nhiều lần nói dối T1 rằng chiếc xe bị Cảnh sát giao thông huyện B bắt, tạm giữ xe cùng giấy tờ, sau đó T đi tỉnh Bắc Ninh, chặn liên lạc của T1 do không có khả năng trả xe cho T1, sau đó bị Công an huyện T, tỉnh Bắc Ninh lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Hoàng Văn N khai: Khi gặp T và nói chuyện với nhau biết T có ý định bán xe, thấy xe có đầy đủ giấy tờ nên đồng ý mua. Sau khi mua xe, sau 30 ngày theo thỏa thuận với T nhưng không thấy T đến chuộc lại chiếc xe. Ngày 24/4/2024, N đã bán xe cho cửa hàng xe máy Linh L tại Tiểu khu C, thị trấn C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn và đưa cả giấy mua bán xe giữa N và T cho L giữ, N không biết chiếc xe do T phạm tội mà có.

Hoàng Văn L, sinh năm 1988, trú tại Tiểu khu C, thị trấn C, huyện B khai: L là chủ cửa hàng X, khi N đến bán xe thì L kiểm tra thấy chiếc xe có đầy đủ giấy tờ nên L đã mua xe với N, giá 12.500.000 đồng, sau đó L đã bán cho người khác, do là xe đã qua sử dụng nên không lập hợp đồng mua bán, L không nhớ đã bán cho người nào, L cũng không biết nguồn gốc chiếc xe do phạm tội mà có.

Ngày 08 tháng 7 năm 2024, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, xác định hiện trường vụ án xảy ra tại quán internet của anh Lý Văn T2, thuộc thôn Đ, xã B, huyện P, tỉnh Bắc Kạn.

Cơ quan điều tra đã xác minh tại Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện B, tỉnh Bắc Kạn, kết quả: Từ ngày 22/3/2024 đến tháng 6/2024, Đội Cảnh sát giao thông Công an huyện B không tạm giữ chiếc xe mô tô biển kiểm soát 97L1-xxxxx của Hoàng Văn T.

Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình giải quyết vụ án thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Triệu Vĩnh T1 yêu cầu bị cáo Hoàng Văn T mua 01 chiếc xe HonDa Wave α mới để trả cho T1 và bồi thường thêm số tiền 4.000.000 đồng là tiền chi phí đi lại để giải quyết vụ án, bị cáo đồng ý trả cho bị hại giá trị chiếc xe theo kết luận định giá là 16.000.000đ và đồng ý trả thêm số tiền 4.000.000 đồng là tiền công tìm kiếm và chi phí đi lại để giải quyết vụ án nhưng chưa bồi thường được khoản tiền nào. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Hoàng Văn N và Hoàng Văn L không có yêu cầu gì.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy tìm tang vật là chiếc xe mô tô HonDa Wave α biển kiểm soát 97L1-xxxxx, nhưng không có kết quả.

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKSPN ngày 26/8/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Pác Nặm để xét xử Hoàng Văn T về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và nội dung bản cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm giữ nguyên quan điểm truy tố như bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".

a) Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo từ 06 (Sáu) đến 12 (Mười hai) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo b) Xử lý vật chứng: Không có. c) Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015. Buộc bị cáo Hoàng Văn T phải bồi thường cho bị hại Triệu Vĩnh T1 giá trị chiếc xe bị chiếm đoạt là 16.000.000đ. Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại về việc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 4.000.000 đồng là tiền công tìm kiếm và chi phí đi lại để giải quyết vụ án.

d) Án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên toà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại theo quy định của pháp luật đối với chiếc xe bị chiếm đoạt, công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại về việc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 4.000.000 đồng là tiền chi phí đi lại để giải quyết vụ án.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án và căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người liên quan và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có cơ sở kết luận:

Ngày 22/3/2024, tại thôn Đ, xã B, huyện P, tỉnh Bắc Kạn, sau khi được Triệu Vĩnh T1 cho mượn xe, bị cáo Hoàng Văn T đã lợi dụng sự tín nhiệm của T1 để chiếm đoạt chiếc xe mô tô HonDa Wave α biển kiểm soát 97L1-xxxxx của T1, đem bán cho Hoàng Văn N lấy tiền tiêu sài cá nhân, gây thiệt hại về tài sản số tiền 16.000.000 đồng.

Hành vi bị cáo chiếm đoạt chiếc xe mô tô HonDa Wave α biển kiểm soát 97L1-xxxxx trị giá 16.000.000đ của anh Triệu Vĩnh T1, bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm truy tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Xét tính chất nghiêm trọng, mức độ phạm tội của bị cáo thấy. Mặc dù nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý hình sự, nhưng do cần tiền tiêu sài cá nhân nên bị cáo đã lợi dụng lòng tin của anh T1 để mượn chiếc xe của anh T1 rồi bán cho người khác. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự xã hội nói chung và huyện P nói riêng, do vậy cần phải có hình phạt xứng đáng với hành vi mà bị cáo đã gây ra.

Khi thực hiện hành vi bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 175 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống của chính người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện nhưng cố tình không trả;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính và bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã nhiều lần nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, do vậy bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và đảm bảo tính giáo dục, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả điều tra, xác minh cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng của vụ án: Không có.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Triệu Vĩnh T1 yêu cầu bị cáo bồi thường cho bị hại một chiếc xe HonDa Wave α mới và bồi thường công tìm kiếm 4.000.000đ. Tại phiên Tòa bị cáo không đồng ý bồi thường bằng việc mua chiếc xe mới mà chỉ đồng ý bồi thường chiếc xe mà bị cáo đã chiếm đoạt theo kết luận định giá là 16.000.000đ và nhất trí bồi thường tiền công tìm kiếm là 4.000.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho bị hại bằng một chiếc xe HonDa Wave α mới là không có căn cứ, do vậy cần buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại giá trị chiếc xe bị chiếm đoạt theo kết luận định giá là 16.000.000đ là phù hợp; đối với yêu cầu bồi thường tiền công tìm kiếm và chi phí đi lại để giải quyết vụ án là 4.000.000đ của bị hại, bị cáo đồng ý bồi thường khoản tiền này, do vậy cần công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại.

[7]. Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Viện kiểm sát: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn tại phiên tòa giữ nguyên Quyết định truy tố như nội dung bản Cáo trạng, quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ. Mức hình phạt của Viện kiểm sát đề nghị tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

Đánh giá việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho bị hại chiếc xe bị chiếm đoạt theo quy định của pháp luật; công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại về việc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 4.000.000 đồng tiền công tìm kiếm, chi phí đi lại để giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là có căn cứ, việc thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại phù hợp với ý chí của bị cáo và bị hại nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Xem xét, đánh giá hành vi của những người liên quan.

Đối với Hoàng Văn N là người đã mua chiếc xe với bị cáo và Hoàng Văn L là người mua lại chiếc xe với Hoàng Văn N sau đó bán cho người khác, kết quả điều tra xác định, N và L không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Văn T, do vậy không xem xét xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, bị cáo có đơn xin Hội đồng xét xử miễn án phí. Do vậy cần miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

[2]. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điếm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

[3]. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 và các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Hoàng Văn T bồi thường cho bị hại anh Triệu Vĩnh T1, sinh năm 2004 - Trú tại: Thôn C, xã X, huyện P, tỉnh Bắc Kạn với tổng số tiền là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng). Trong đó 16.000.000đ (Mười sáu triệu đồng) là tiền bồi thường chiếc xe HonDa Wave α biển kiểm soát 97L1-xxxxx bị chiếm đoạt; 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) tiền bồi thường công tìm kiếm, chi phí đi lại để giải quyết vụ án.

Việc thi hành án được thực hiện theo Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 ”

[4]. Về vật chứng: Không có.

[5]. Về án phí: Áp dụng điếm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

[6]. Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 21/2024/HS-ST

Số hiệu:21/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Pác Nặm - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;