Bản án về tội giết người số 316/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 316/2022/HS-PT NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 16 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 572/2021/TLPT-HS ngày 06 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Minh P do bị cáo kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

- Bị cáo có kháng cáo: Phạm Minh P (tên gọc khác: U), sinh 06/6/1998 tại tỉnh Ninh Thuận; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn TT 2, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Thợ sơn; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B và bà Phạm Thị T; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 25/6/2020 bị Công an xã Phước Hải, huyện Ninh Phước xử phạt 1.500.000 đồng và tịch thu 260.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”, đã nộp tiền ngày 25/6/2020; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn Kh, Văn phòng Ngọc Kh, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Ninh Thuận, có mặt.

Ngoài ra người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 11/02/2021 tại nhà bà Huỳnh Thị B ở thôn TT 1, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận tổ chức tiệc tất niên. Trong lúc ngồi uống rượu, Phạm Minh P cho rằng anh Trịnh Minh T nhìn đểu mình nên giữa P và T cãi nhau, được mọi người can ngăn.

Khoảng 18 giờ cùng ngày, mọi người ra về, còn lại P, T và các anh Nguyễn Sinh Đ, Nguyễn Sinh L ngồi lại. Một lúc sau, anh Trịnh Minh Đ là em ruột T điều khiển xe mô tô chở Huỳnh Văn R đến nhà bà B gặp anh T để lấy áo khoác đi chơi. P nghĩ rằng anh T gọi người đến để đánh P nên P đi đến chỗ anh Trịnh Minh Đ nói chuyện và dẫn đến cự cãi. Khi thấy Trịnh Minh Đ đi cùng P ra ngoài đường thì anh T cũng chạy ra theo. Khi đi ra cách cổng nhà khoảng 5 mét, P dùng tay phải đánh vào mặt anh Trịnh Minh Đ, anh T chạy tới can ngăn thì P rút 01 con dao bấm dài 15,5cm, mũi nhọn trong túi quần ra, cầm dao bằng tay phải đâm mạnh 01 nhát trúng vào vùng bụng của anh T. Sau đó P cầm dao quay sang đâm mạnh liên tiếp 10 nhát trúng vào vùng bụng và tay trái của anh Trịnh Minh Đ. Anh Trịnh Minh Đ bỏ chạy đến giữa cổng nhà bà B té ngã xuống đất nằm bất tỉnh, con dao bấm còn cắm trên bụng anh Trịnh Minh Đ, anh Nguyễn Sinh Đ chạy đến rút con dao ra khỏi bụng của anh Trịnh Minh Đ và vứt ở góc cổng nhà. Ngay sau đó, anh R lấy xe mô tô chở Trịnh Minh Đ, T đi cấp cứu. Do bị thương tích nặng, máu ra nhiều nên khi đi được một đoạn anh T bị ngất xỉu làm cả ba người ngã giữa đường. Anh L chạy theo sau phát hiện nên gọi người xung quanh đưa anh T và anh Trịnh Minh Đ đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận. Do vết thương quá nặng nên anh Trịnh Minh Đ tử vong ngay sau đó. Còn anh Trịnh Minh T được cấp cứu và điều trị đến ngày 26/02/2021 ra viện.

Sau khi gây án, P bỏ trốn, đến sáng ngày 12/02/2021 P đến Cơ quan Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết quả khám nghiệm tử thi Trịnh Minh Đ xác định: Vùng mặt: cánh mũi trái có vết bầm tím, lỗ mũi có dịch đỏ, môi dưới có vết bầm tím; Vùng ngực: Trước hố nách phải có vết rách da kích thước: (6,2 x 0,1)cm, bờ mép sắc gọn; Vùng bụng: Bụng bên phải cách bờ dưới sườn phải 6cm, cách đường trắng giữa trên rốn 7,5cm có vết thương số (1) hình bầu dục nằm ngang, kích thước (1,5 x 0,5) thấu vào trong ổ bụng; cách vết thương số (1) 2cm, cách rốn 1,5cm là vết thương số (2) không rõ hình dạng, kích thước một cạnh 12cm, một cạnh 3cm, rộng 0,1cm; cách vết thương số (2) 4cm, cách đường trắng giữa dưới rốn 8cm là vết thượng số (3) hình bầu dục nằm ngang kích thước (2 x 0,5)cm thấu vào ổ bụng; cách vết thương số (2) 2cm, cách đường trắng giữa trên dưới rốn 2cm là vết thương số (4) nằm chéo kích thước (6 x 0,1)cm; bụng bên trái cách bờ dưới sườn trái 6cm, cách đường trắng giữa trên rốn 5,5cm là vết thương số (5) kích thước (1,3 x 0,2)cm; cách vết thương số (5) 6cm, cách rốn 7,5cm là vết thương số (6) nằm dọc, kích thước (1,3 x 0,3)cm; cách vết thương số (6) 2cm, cách đường trắng giữa dưới rốn 6cm là vết thương số (7) nằm chéo kích thước (10,5 x 0,1)cm; trên cánh chậu trái cách vết thương số (7) 5,5cm là vết thương số (8) nằm chéo, kích thước (3 x 0,2)cm.Tay trái: Mu bàn tay ở điểm góc ngón II, III có vết rách da kích thước (3,5 x 0,1)cm; Lòng bàn tay có vết rách da kích thước (3,5 x 0,1)cm.

Khám trong: Ở bụng chứa đầy máu, các quai ruột bầm tím, tụ máu. Vết thương số (2) xuyên thấu vào ổ bụng, chiều hướng từ dưới lên trên, từ ngoài vào trong, vết thương số (4) xuyên thấu vào trong ổ bụng chiều hướng từ dưới lên trên, từ ngoài vào trong, rách mặc treo ruột non, bầm tụ máu từng mảng, tổn thương thanh mạc ruột non có 02 vết thủng xuyên tương ứng với vết thương số (2) và (4) từ bên ngoài vào, vết thương số (7) xuyên thấu vào ổ bụng; vết thương số (8) xuyên thấu vào trong ổ bụng chiều hướng từ dưới lên trên, từ ngoài vào trong, đại tràng ngang có vết thủng, đại tràng xuống có vết thủng tương ứng với vết thương số (7) và (8) từ bên ngoài vào.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số: 41/TT ngày 19/02/2021 của Trung tâm giám định pháp Y khoa - Pháp y tỉnh Ninh Thuận kết luận nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh Trịnh Minh Đ là do: Sốc mất máu kết hợp sốc nhiễm trùng, nhiễm độc của hoại tử ruột, hậu quả của tổn thương nhiều nơi ở mạc treo ruột và ruột.

Tại bản kết luận giám định số: 1525/C09B, ngày 13/04/2021 của Phân viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết quả giám định con dao và mẫu đất cát dính chất màu nâu đỏ: Dấu vết trên các mẫu gửi giám định là máu người. Phân tích được cùng một kiểu gen nam giới hoàn chỉnh từ các mẫu máu này và trùng với kiểu gen của Trịnh Minh Đ.

Giấy chứng nhận thương tích số: 2101142-GCT/NT, ngày 10/03/2021 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận ghi nhận tình trạng thương tích của anh Trịnh Minh T như sau: Vết thương dài 03cm, sâu vào ổ bụng, ở vùng hông trái. Vết thương thủng mạc treo tràng dưới; thủng mạc treo ruột non quai hỗng tràng; ruột non hỗng tràng thủng 03 lỗ; đại tràng thủng 02 lỗ. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 43/TCT, ngày 23/03/2021 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y tỉnh Ninh Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Trịnh Minh T là 63%. Cơ chế hình thành vết thương: do vật sắc nhọn gây nên.

Cơ quan điều tra thu giữ vật chứng gồm 01 con dao bằng kim loại, loại dao bấm dài 15,5cm, phần cán dài 8,7cm, phần lưỡi dài 6,8cm, đầu lưỡi dao nhọn do P sử dụng để đâm anh Trịnh Minh Đ và anh T.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Trịnh Văn N yêu cầu Phạm Minh P phải bồi thường thiệt hại gồm chi phí cấp cứu anh Trịnh Minh Đ 38.698.815 đồng, chi phí mai táng 16.115.000 đồng, xây mộ 22.500.000 đồng, tiền cúng 20.000.000 đồng và bồi thường tổn thất về tinh thần theo quy định của pháp luật. Anh Trịnh Minh T yêu cầu Phạm Minh P bồi thường thiệt hại 82.975.294 đồng gồm: viện phí: 19.175.294 đồng, mua thuốc ngoài 5.200.000 đồng, thu nhập bị mất 6 tháng: 54.000.000 đồng, tiền công nuôi bệnh trong 15 ngày: 4.500.000 đồng, chi phí đi lại 100.000 đồng. Gia đình bị cáo P đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 21/CT-VKS-P2 ngày 29/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Thuận truy tố Phạm Minh P về tội “Giết người” theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2021/HS-ST ngày 29/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:

Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh P (tên gọi khác: Út) phạm tội “Giết người”.

2. Xử phạt bị cáo Phạm Minh P Tù chung thân về tội “Giết người”. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/02/2021.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về trách nhiệm do chậm thi hành án; về án phí sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/11/2021 bị cáo Phạm Minh P có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

- Bị cáo Phạm Minh P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung của bản án sơ thẩm đã tuyên. Nhưng bị hại cũng có lỗi do bị hại đã đánh bị cáo trước, vì nóng giận không kiềm chế được nên bị cáo có dùng dao đâm bị hại. Bị cáo xin được giảm nhẹ một phần hình phạt, để bị cáo để có cơ hội trở về chăm sóc cha mẹ và có cơ hội bù đắp một phần mất mát cho gia đình bị hại.

- Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Minh P trong hạn luật định, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm. Về nội dung kháng cáo: Xét thấy Bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Phạm Minh P phạm tội “Giết người” với hai tình tiết định khung được quy định tại điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và quyết định mức hình phạt đối với bị cáo là tương xứng. Do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Bản án sơ thẩm tuyên xử bị cáo phạm tội giết người và bị áp dụng tình tiết tăng nặng định khung là “Giết 02 người trở lên”, tuy nhiên xét thấy thực tế chỉ có bị hại Trịnh Minh Đ là đã tử vong, còn bị hại T chỉ bị thương tích 63%. Về ý thức chủ quan của bị cáo không mong muốn bị hại Trịnh Minh Đ chết. Bản án sơ thẩm xét xử như vậy là quá nghiêm khắc với bị cáo. Ngoài ra bị cáo cũng khai do bị hại tấn công bị cáo, bị cáo bị kích động nhẹ về mặt tinh thần nên cũng có một phần lỗi của bị hại. Dù bị hại Trịnh Minh Đ nói là đến lấy áo khoác mang đi, nhưng do có mặt Trịnh Minh Đ nên bị cáo nghỉ rằng T kêu Trịnh Minh Đ đến đánh bị cáo, và thực tế là 02 bị hại Trịnh Minh Đ và T có tấn công (bóp cổ, đánh vào đầu) bị cáo. Do đó đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm cân nhắc, khoan hồng cho bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng tuyên một hình phạt có mức án tù cụ thể cho bị cáo để bị cáo chấp hành, cải tạo, sớm về với gia đình và xã hội, có điều kiện làm ăn để bồi thường cho bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng của bị cáo Phạm Minh P làm trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo nại ra rằng do bị cáo bị anh Trịnh Minh Đ dùng tay bóp cổ và bị anh T dùng tay đánh vào đầu nên bị cáo mới rút dao trong trong túi quần ra để đâm một nhát vào người T và đâm nhiều nhát vào người Trịnh Minh Đ. Tuy nhiên căn cứ vào lời khai của những người làm chứng, của bị hại, của bị cáo tại cơ quan điều tra; biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 11/02/2021 trong lúc ngồi uống rượu tại nhà bà Huỳnh Thị B ngụ tại thôn TT 1, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận Phạm Minh P và anh Trịnh Minh T xảy ra cự cãi. Khi anh Trịnh Minh Đ là em ruột T đến gặp anh T lấy áo khoác để đi chơi, P đã dùng tay đánh vào mặt anh Trịnh Minh Đ và dùng dao bấm là hung khí nguy hiểm đâm liên tiếp 10 nhát vào bụng, tay trái làm cho anh Trịnh Minh Đ tử vong và đâm 01 nhát vào bụng của anh Trịnh Minh T làm thủng 02 lỗ đại tràng và thủng 03 lỗ hỗng tràng, gây tổn thương cơ thể của anh Trịnh Minh T với tỷ lệ là 63% . Do đó, Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Phạm Minh P phạm tội “Giết người” với hai tình tiết định khung là “Giết 02 người trở lên” và “Có tính chất côn đồ” theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Vì vậy xét lời nại ra của bị cáo và lời đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo là chưa có căn cứ để chấp nhận.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, thể hiện bản tính côn đồ, hung hãn, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Xét bị cáo đã có tiền sự về hành vi đánh bạc. Sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo cũng đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho gia đình bị hại. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo với mức hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội là tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng bị cáo không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định của pháp luật nên không có căn cứ để giảm hình phạt theo yêu cầu kháng cáo của bị cáo và lời đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo.

Do đó giữ nguyên bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ, phù hợp với nhận định trên.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo Phạm Minh P phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về trách nhiệm do chậm thi hành án; về án phí sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Minh P. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2021/HS-ST ngày 29/10/2021của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Phạm Minh P.

2. Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 39 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

2.1. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh P (tên gọi khác: Út) phạm tội “Giết người”.

2. 2. Xử phạt bị cáo Phạm Minh P tù chung thân về tội “Giết người”. Thời hạn tù được tính từ ngày 12/02/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

3. Bị cáo Phạm Minh P phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về trách nhiệm do chậm thi hành án; về án phí sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

466
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 316/2022/HS-PT

Số hiệu:316/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;