Bản án về tội đánh bạc số 415/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH B

BẢN ÁN 415/2021/HS-ST NGÀY 23/12/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 05 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 411/2021/HSST ngày 08 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 432/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1/ Lê Văn T, sinh năm 1987 tại tỉnh S; nơi cư trú: Ấp Kiết Nhất A, xã L, huyện T, tỉnh S; tạm trú: 13/21 khu phố X, phường Y, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C và bà Hồ Thị T; bị cáo có vợ tên Trần Kim L và có 01 người con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 08/6/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2/ Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1979 tại tỉnh A; nơi cư trú: Ấp X, xã Tân An, thị xã T, tỉnh A; tạm trú: 13/21 khu phố Y, phường Z, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Mã Thị Y; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc E và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 08/6/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

3/ Nguyễn Văn D, sinh năm 1991 tại tỉnh Q; nơi cư trú: Thôn 7, xã B, huyện G, tỉnh Q; tạm trú: 13/21 khu phố X, phường Y, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Phan Thị B; bị cáo có vợ tên Hoàng Thị V và có 01 người con, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 08/6/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

4/ Hoàng Văn N, sinh năm 1982 tại tỉnh T; nơi cư trú: Thôn 9, xã M, huyện H, tỉnh T; tạm trú: 13/21 khu phố X, phường Y, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: 05/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Hoàng Thị V; bị cáo có vợ tên Hoàng Thị L và có 02 người con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 08/6/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

5/ Vũ Xuân T, sinh năm 1979 tại tỉnh T; nơi cư trú: Thôn 3, xã G, huyện X, tỉnh T; tạm trú: 13/21 khu phố X, phường Y, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ xây dựng; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Vũ Thị Th, không rõ họ tên cha; bị cáo có vợ tên Lê Thị L và có 02 người con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 08/6/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

6/ Võ Văn T, sinh năm 1992 tại tỉnh S; nơi cư trú: Ấp T, xã Đ, huyện T, tỉnh S; tạm trú: 13/21 khu phố X, phường Y, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn T và bà Nguyễn Thị Mỹ L; bị cáo có vợ tên Lý Thị Kim H và có 02 người con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 08/6/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

7/ Nguyễn Thành L, sinh năm 1995 tại thành phố C; nơi cư trú: Ấp T, xã N, huyện C, Thành phố C; tạm trú: 13/21 khu phố X, phường Y, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ điện; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kiến G và bà Võ Thị P; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thuý H và có 02 người con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 08/6/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người làm chứng:

Ông Nguyễn Chí H và ông Dương Vũ P. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 29/5/2021, tại bãi đất trống trước cơ sở trọ địa chỉ 13/21 khu phố X, phường Y, thành phố T, tỉnh B, các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L và một số đối tượng chưa rõ nhân thân lai lịch tham gia đánh bạc thắng thua bằng hình thức chơi bài binh Ấn Độ 6 lá. Bị cáo T làm cái chia bài thành 8 tụ, mỗi tụ 6 lá bài để các con bạc đặt cược từ 50.000 đồng đến 500.000 đồng. Đến khoảng 23 giờ 20 phút cùng ngày, lực lượng Công an phường Y tuần tra phát hiện bắt giữ các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L, riêng một số đối tượng đã bỏ chạy thoát. Vật chứng thu giữ gồm: Số tiền 2.000.000 đồng trên chiếu bạc, số tiền 10.450.000 đồng thu giữ trong người các bị cáo, 03 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 chiếc chiếu kích thước 1,6x2 mét.

Quá trình điều tra xác định: Lê Văn T mang theo và sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc, thua 900.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 1.100.000 đồng trên chiếu bạc và thu giữ trong người 1.000.000 đồng. Nguyễn Hữu T mang theo và sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc, thắng 150.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 150.000 đồng trên chiếu bạc và thu giữ trong người 5.000.000 đồng. Nguyễn Văn D mang theo và sử dụng 1.650.000 đồng để đánh bạc, không thắng không thua, khi bị bắt bị thu giữ 100.000 đồng trên chiếu bạc và thu giữ trong người 1.550.000 đồng. Hoàng Văn N mang theo và sử dụng 1.400.000 đồng để đánh bạc, thua 300.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 400.000 đồng trên chiếu bạc và thu giữ trong người 700.000 đồng. Vũ Xuân T mang theo và sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, thua 200.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 100.000 đồng trên chiếu bạc và thu giữ trong người 700.000 đồng. Võ Văn T mang theo và sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, thắng 100.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 100.000 đồng trên chiếu bạc và thu giữ trong người 1.000.000 đồng. Nguyễn Thành L mang theo và sử dụng 500.000 đồng để đánh bạc, thắng 50.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 50.000 đồng trên chiếu bạc và thu giữ trong người 500.000 đồng. Tổng số tiền mà các bị cáo mang theo và sử dụng đánh bạc là 13.550.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 405/CT-VKS-TA ngày 04/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Xử phạt các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, mỗi bị cáo số tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng; xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L, mỗi bị cáo số tiền từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch nộp ngân sách nhà nước số tiền 12.450.000 đồng thu giữ của các bị cáo. Tịch thu tiêu huỷ 03 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, 01 chiếc chiếu kích thước 1,6x2 mét.

Các bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt do tình hình dịch bệnh covid đang diễn biến phức tạp, việc làm đơn vắng mặt của các bị cáo là tự nguyện. Toàn bộ lời khai của các bị cáo trong hồ sơ vụ án thể hiện suốt quá trình điều tra các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội, thống nhất với nội dung truy tố của Viện kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Các bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt: Việc nộp đơn xin xét xử vắng mặt của các bị cáo là tự nguyện, sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Trong quá trình điều tra, các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh B đã truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

[2.1] Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 29/5/2021, tại bãi đất trống trước cơ sở trọ địa chỉ 13/21 khu phố X, phường Y, thành phố T, tỉnh B, các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L đã có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới bằng hình thức chơi bài binh Ấn Độ 6 lá với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 13.550.000 đồng thì bị bắt phạm tội quả tang.

[2.2] Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Các bị cáo có đủ năng lực để nhận thức được hành vi đánh bạc được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần xét xử mức án phù hợp với tính chất, mức độ hành vi đối với các bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và giai đoạn chuẩn bị xét xử, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo Võ Văn T có ông nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3, bị cáo Hoàng Văn N là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo Võ Văn T và Hoàng Văn N.

[5] Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, bị cáo Lê Văn T là người làm cái nên vai trò cao hơn các bị cáo còn lại.

[6] Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà xử phạt tiền cũng đủ đảm bảo răn đe, giáo dục các bị cáo. Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T tại phiên tòa là phù hợp, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Đối với một số đối tượng cùng tham gia đánh bạc với các bị cáo hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền 12.450.000 đồng sử dụng đánh bạc nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 03 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 chiếc chiếu kích thước 1,6mx2m là công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 47; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L.

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Võ Văn T, Hoàng Văn N.

- Điều 106, Điều 136; Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L phạm tội Đánh bạc.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Lê Văn T 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Hoàng Văn N 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Vũ Xuân T 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Võ Văn T 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 12.450.000 đồng;

- Tịch thu tiêu huỷ: 03 bộ bài tây đã qua sử dụng, 01 chiếc chiếu kích thước 1,6mx2m.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/12/2021 giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T và uỷ nhiệm chi ngày 05/11/2021).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn D, Hoàng Văn N, Vũ Xuân T, Võ Văn T, Nguyễn Thành L, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 415/2021/HS-ST

Số hiệu:415/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;