TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 39/2021/HC-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH THU HỒI, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ ĐẤT ĐAI
Ngày 09 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý 54/2019/TLST-HC ngày 01 tháng 10 năm 2019 về việc “khiếu kiện Quyết định hành chính thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2021/QĐXXST-HC ngày 22 tháng 11 năm 2021 của TAND tỉnh Phú Yên, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Lê Văn D – sinh năm 1966
Địa chỉ: Khu phố Mỹ H, phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Trần Hải L – sinh năm 1980; địa chỉ: 76 Nguyễn H, phường 5, thành phố Tuy H, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
2. Người bị kiện:
2.1 Ủy ban nhân dân thị xã Đông H, tỉnh Phú Yên;
2.2 Chủ tịch UBND thị xã Đông H, tỉnh Phú Yên.
Đều vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Huỳnh Tấn Ph – Phó Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Đông H. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ủy ban nhân dân phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H; Vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
3.2 Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Đông H, tỉnh Phú Yên; Vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
3.3 Trường Mầm non phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H; Vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
3.4 Bà Trần Thị H – sinh năm 1969; địa chỉ: Khu phố Mỹ H, phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H (vợ của ông Lê Văn D); Có mặt.
3.5 Vợ chồng ông Lê Kim L – sinh năm 1954, bà Nguyễn Thị M– sinh năm 1954; Khu phố Mỹ H, phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H. Đều có mặt.
4. Những người làm chứng:
4.1 Ông Lê Th – sinh năm 1944; địa chỉ: Khu phố Mỹ H, phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H; Có mặt.
4.2 Ông Lê Văn X – sinh năm 1940; địa chỉ: Khu phố Mỹ H, phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H; Có mặt.
4.3 Ông Nguyễn Khả T1 – sinh năm 1928; địa chỉ: Khu phố Mỹ H, phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H (chết).
4.4 Ông Nguyễn Ch– sinh năm 1947; địa chỉ: Khu phố Mỹ H, phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H; Có mặt.
4.5 Ông Nguyễn Quốc Q – sinh năm 1951; địa chỉ: Khu phố Mỹ H, phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện thống nhất trình bày:
Thực hiện Công trình xây dựng 05 phòng học Trường Mầm non xã Hòa Hiệp B, huyện Đông H, diện tích đất gia đình ông Lê Văn D bị ảnh hưởng thu hồi, giải phóng mặt bằng với diện tích 622m2.
Diện tích đất này có nguồn gốc do ông Lê Văn D khai hoang từ năm 1975 để trồng cây bạch đàn. Năm 1980 gia đình ông D có đào một giếng nước. Việc khai hoang này có rất nhiều người làm chứng xác nhận như ông Lê Th, ông Lê Văn X, ông Nguyễn Khả T1, ông Nguyễn Ch.
Nhưng khi nhà nước thu hồi để thực hiện công trình thì không ban hành Quyết định thu hồi đất đối với gia đình ông D và không bồi thường về đất mà chỉ bồi thường về cây trồng trên đất.
Do đó, người khởi kiện ông Lê Văn D yêu cầu Tòa án:
- Hủy quyết định thu hồi đất số 1454/QĐ-UBND ngày 26/3/2018 của UBND huyện Đông H đối với diện tích 552m2;
- Hủy một phần Quyết định số 1434/QĐ-UBND ngày 26/3/2018 của UBND huyện Đông H “V/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện công trình: Xây dựng 05 phòng học Trường mầm non xã Hòa Hiệp B” liên quan đến diện tích đất hộ ông Lê Văn D đang khởi kiện.
- Buộc UBND thị xã Đông H ban hành Quyết định thu hồi đất và lập phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích 622m2 khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện Công trình xây dựng 05 phòng học trường Mầm non xã Hòa Hiệp B, huyện Đông H (nay là phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H) cho gia đình ông Lê Văn D theo đúng quy định của pháp luật.
Người bị kiện UBND thị xã Đông H trình bày (Văn bản số 440/UBND- TTPTQĐ ngày 18/02/2020) (BL 60):
Trên cơ sở Kế hoạch và thông báo thu hồi đất của UBND huyện Đông H. Trung tâm phát triển quỹ đất đã phối hợp với UBND xã Hòa Hiệp B đo đạc, kiểm đếm và họp xét quy chủ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất cho tất cả các hộ bị ảnh hưởng công trình, trong đó có hộ ông Lê Văn D.
Trên cơ sở biên bản họp xét quy chủ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất của Hội đồng họp xét UBND xã Hòa Hiệp B, Trung tâm phát triển quỹ đất đã hoàn thiện các bước theo quy định trình phòng Tài nguyên và Môi trường thẩm định phương án và đã được UBND huyện Đông H phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện công trình: Xây dựng 05 phòng học Trường Mầm non xã Hòa Hiệp B tại Quyết định số 1434/QĐ-UBND ngày 26/3/2018, theo đó hộ ông Lê Văn D được bồi thường về cây cối, hoa màu có trên đất mà không được bồi thường về đất.
Không đồng ý Quyết định số 1434/QĐ- UBND ngày 26/3/2018 của UBND huyện Đông H, hộ ông Lê Văn D có đơn khiếu nại, do đó UBND huyện Đông H đã chỉ đạo UBND xã Hòa Hiệp B kiểm tra và họp xét lại về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất cho các hộ bị ảnh hưởng công trình trên theo đúng quy định pháp luật. Ngày 06/9/2019 UBND xã Hòa Hiệp B đã họp và xét lại nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất thì hộ ông Lê Văn D và các hộ khác bị ảnh hưởng để xây dựng công trình được bồi thường về đất.
Ngày 22/11/2019 đến ngày 25/11/2019 Trung tâm phát triển quỹ đất đã phối hợp với UBND xã Hòa Hiệp B và các cơ quan có liên quan mời 15 hộ gia đình bị ảnh hưởng công trình tiến hành công khai dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và phát bảng tính chi tiết đến từng hộ gia đình và tổng hợp ý kiến của từng hộ gia đình.
Hiện nay, UBND huyện Đông H đang chỉ đạo Trung tâm phát triển quỹ đất đang hoàn thiện lập Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định pháp luật chuyển phòng Tài nguyên và Môi trường thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ theo quy định, trình UBND huyện phê duyệt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND phường Hòa Hiệp B trình bày:Thống nhất theo kết quả giải quyết của UBND thị xã Đông H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Đông H trình bày: Thống nhất theo quan điểm giải quyết của UBND thị xã Đông H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trường mầm non phường Hòa Hiệp B không có ý kiến trình bày.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị H trình bày: Thống nhất theo các yêu cầu của người khởi kiện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vợ chồng ông Lê Kim L, bà Nguyễn Thị M trình bày: Thống nhất theo quan điểm trình bày của người khởi kiện. Đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.
Những người làm chứng ông Lê Th, ông Lê Văn X, ông Nguyễn Ch trình bày: Nguyên diện tích đất ông Lê Văn D đang khiếu kiện có nguồn gốc là do gia đình ông D khai hoang từ năm 1975 và sử dụng ổn định, liên tục không ai tranh chấp.
Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, nhưng các bên đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người bị kiện vẫn giữ nguyên quyết định hành chính bị kiện. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án hành chính để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Tại phiên tòa:
Các bên đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm trình bày.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
Đại diện viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng, thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đúng quy định pháp luật; Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ điểm b, khoản 2, điều 193 Luật tố tụng hành chính chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự, đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người bị kiện UBND thị xã Đông H, UBND phường Hòa Hiệp B và Trường Mầm non phường Hòa Hiệp B vắng mặt nhưng có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 158 Luật tố tụng hành chính, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Do không đồng ý với việc thu hồi, bồi thường khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện Công trình xây dựng 05 phòng học trường Mầm non xã Hòa Hiệp B, huyện Đông H (nay là phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H) nên ngày 25/9/2018 ông Lê Văn D có đơn khiếu nại. Ngày 31/10/2018 Chủ tịch UBND huyện Đông H ban hành Quyết định số 5018/QĐ-UBND về việc xác minh nội dung khiếu nại. Nhưng đã quá thời hạn giải quyết khiếu nại mà Chủ tịch UBND Đông H (nay là UBND thị xã Đông H) không ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại nên ngày 29/8/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án ông Lê Văn D nộp đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy quyết định thu hồi đất số 1454/QĐ-UBND ngày 26/3/2018 của UBND huyện Đông H đối với diện tích 552m2;
- Hủy một phần Quyết định số 1434/QĐ-UBND ngày 26/3/2018 của UBND huyện Đông H “V/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện công trình: Xây dựng 05 phòng học Trường mầm non xã Hòa Hiệp B” liên quan đến diện tích đất hộ ông Lê Văn D đang khởi kiện.
- Buộc UBND thị xã Đông H ban hành Quyết định thu hồi đất và lập phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích 622m2 khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện Công trình xây dựng 05 phòng học trường Mầm non xã Hòa Hiệp B, huyện Đông H (nay là phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H) cho gia đình ông Lê Văn D theo đúng quy định của pháp luật.
Do đó, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền và còn trong thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 32 và Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
[3] Xét nguồn gốc, hiện trạng sử dụng đất đối với diện tích 622m2 ông Lê Văn D đang khởi kiện yêu cầu được bồi thường, hỗ trợ:
Theo biên bản xác minh ngày 11/11/2021 tại UBND phường Hòa Hiệp B thể hiện: Diện tích 622m2 ông Lê Văn D đang khiếu kiện thuộc thửa đất số 369, tờ bản đồ số 378-C. Đối chiếu Sổ mục kê đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tại trang số 95, quyển số 1 thể hiện thửa đất số 369 thể hiện chủ sử dụng đất là bà Võ Thị Lại (mẹ của ông Lê Văn D). Diện tích đất này thuộc loại đất nông nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật đất đai 2013 và không vượt hạn mức giao đất nông nghiệp tại Điều 129 Luật đất đai 2013. Đồng thời hộ ông Lê Văn D là hộ trực tiếp sản xuất nông nghiệp và không thuộc các trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất được quy định tại Điều 82 Luật đất đai 2013.
[3.1] Tại buổi xem xét thẩm định tại chỗ ngày 16/6/2021 thể hiện trên diện tích 622m2 ông Lê Văn D đang khiếu kiện vẫn còn tồn tại 35 cây Bạch đàn (đường kính trên 10cm), 03 cây điều lâu năm và 01 cái giếng đào xi măng. Điều này phù hợp với lời trình bày về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của ông Lê Văn D và lời khai của những người làm chứng canh tác cùng thời điểm và liền kề diện tích đất ông Lê Văn D.
[3.2] Khoản 2 Điều 77 Luật đất đai quy định “Đối với đất nông nghiệp đã sử dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này thì được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 129 của Luật này.”
[3.3] Do đó diện tích 622m2 ông Lê Văn D đang khiếu kiện đủ điều kiện được bồi thường, hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật đất đai 2013 “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp.”
[3.4] Tại Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất lập tháng 9/2019 có chữ ký của bà Hồng (vợ của ông D) và tại biên bản, xem xét thẩm định tại chỗ cũng như các Biên bản đối thoại tại Tòa án các bên đương sự, đại diện Trung tâm phát triển quỹ đất đều thừa nhận diện tích thực tế ông Lê Văn D bị ảnh hưởng giải phóng mặt bằng là 622m2 nhưng tại Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất lập tháng 10/2017 (không có đại diện chủ sử dụng đất ký mà do công chức địa chính xã Hòa Hiệp B ký) và Quyết định thu hồi đất số 1454/QĐ-UBND ngày 26/3/2018 của UBND huyện Đông H (nay là thị xã Đông H) thể hiện diện tích ông D đang sử dụng bị ảnh hưởng thu hồi dự án là 552m2 là không phù hợp với diện tích và hiện trạng sử dụng đất.
[3.5] Mặc khác, Tại Văn bản số 440/UBND-TTPTQĐ ngày 18/02/2020 (Bl 60) của UBND thị xã Đông H về việc trình bày ý kiến gửi cho Tòa án đã thừa nhận diện tích đất ông Lê Văn D đủ điều kiện được bồi thường về đất.
[4] Từ những nhận định nêu trên HĐXX nhận thấy: Do ban hành Quyết định thu hồi đất không đúng đối tượng và không đúng diện tích nên dẫn đến các Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với ông Lê Văn D cũng không đúng nên chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện và đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát: Hủy các quyết định hành chính bị khởi kiện và Buộc UBND thị xã Đông H lập phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất ông Lê Văn D đang khiếu kiện bị ảnh hưởng giải phóng mặt bằng để thực hiện Công trình xây dựng 05 phòng học trường Mầm non xã Hòa Hiệp B, huyện Đông H (nay là phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H) theo đúng quy định pháp luật.
[5] Về án phí và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên người khởi kiện không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ theo quy định. Người bị kiện phải chịu án phí hành chính sơ thẩm và chi phí xem xét thẩm định tại chỗ theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điều 30, 32, 116, 158, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 348 và 358 Luật tố tụng hành chính; Khoản 1 Điều 10, khoản 1 Điều 75, khoản 2 Điều 77, Điều 82 và Điều 129 Luật đất đai 2013; Khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của ông Lê Văn D đối với các yêu cầu:
- Hủy quyết định thu hồi đất số 1454/QĐ-UBND ngày 26/3/2018 của UBND huyện Đông H đối với diện tích 552m2;
- Hủy một phần Quyết định số 1434/QĐ-UBND ngày 26/3/2018 của UBND huyện Đông H “V/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện công trình: Xây dựng 05 phòng học Trường mầm non xã Hòa Hiệp B” liên quan đến diện tích đất hộ ông Lê Văn D đang khởi kiện.
- Buộc UBND thị xã Đông H ban hành Quyết định thu hồi đất và lập phương án thu hồi, bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện Công trình xây dựng 05 phòng học trường Mầm non xã Hòa Hiệp B, huyện Đông H (nay là phường Hòa Hiệp B, thị xã Đông H) cho gia đình ông Lê Văn D theo đúng quy định của pháp luật.
Về án phí: Ủy ban nhân dân thị xã Đông H phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả lại cho ông Lê Văn D 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm, đã nộp tại biên lai số AA/2019/0000020 ngày 01/10/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 3.000.000 đồng: Ủy ban nhân dân thị xã Đông H phải chịu 3.000.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Người khởi kiện ông Lê Văn D đã tạm ứng 3.000.000 đồng, nên Ủy ban nhân dân thị xã Đông H phải hoàn trả cho ông Lê Văn D 3.000.000 đồng.
Thời hạn, trình tự thủ tục thi hành và xử lý trách nhiệm với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện theo Nghị định 71/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của Chính phủ.
Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Bản án về khiếu kiện quyết định thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đất đai số 39/2021/HC-ST
Số hiệu: | 39/2021/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 09/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về