TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 435/2023/HC-PT NGÀY 19/06/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH BỒI THƯỜNG HỖ TRỢ VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
Ngày 19 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai, vụ án thụ lý số: 812/2022/TLPT-HC ngày 01 tháng 12 năm 2022 về “Khiếu kiện quyết định bồi thường, hỗ trợ và quyết định giải quyết khiếu nại”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 21/2022/HC-ST ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh A bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 259/2023/QĐ-PT ngày 24 tháng 02 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 39/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 3 năm 2023; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 596/2023/QĐ-PT ngày 23 tháng 3 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 47/2023/QĐ-PT ngày 10 tháng 4 năm 2023; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1228/2023/QĐ-PT ngày 24 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Phạm Văn S, sinh năm 1961;
Cư trú: Số 131, đường N, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Trần Văn T, sinh năm 1955; Cư trú: Số 924, khóm Đ1, phường Đ2, thành phố L, tỉnh A (Theo Văn bản ủy quyền ngày 27/7/2022) (có mặt).
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh A;
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Đào Văn N1– Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố L (Theo Văn bản ủy quyền số: 3581/UBND-NC ngày 05/8/2022) (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi hợp pháp cho người bị kiện: Ông Bùi Quang T1 – Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố L, tỉnh A (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị C; Cư trú: Số 131, đường N, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A (có đơn đề nghị xử vắng mặt).
- Kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A.
- Người kháng cáo: Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh A là người bị kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện ông Phạm Văn S, trình bày:
Ông và vợ là Nguyễn Thị C có diện tích đất 1.645m2, tọa lạc tại phường M1, thành phố L, tỉnh A được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) số CS12691 ngày 18/01/2019.
Ngày 23/12/2021, Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố L, tỉnh A ban hành Quyết định số 5121/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Phạm Văn S và bà Nguyễn Thị C để thực hiện Dự án Khu Tây Đại học A mở rộng, phường M1, thành phố L.
Cùng ngày 23/12/2021, UBND thành phố L ban hành Quyết định số 5122/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ đối với đất thu hồi, với nội dung gồm các khoản:
- Bồi thường chi phí về đất: 2.074.345.000 đồng;
+ Đất LNK 1.645m2 x 1.261.000đ/m2 = 2.074.345.000 đồng;
- Bồi thường chi phí về cây trồng và vật nuôi: 194.038.000 đồng;
- Các chính sách hỗ trợ: 618.120.000 đồng.
+ Hỗ trợ chuyển đổi nghề: 1.645m2 x 360.000đ/m2 = 592.200.000 đồng + Hỗ trợ ổn định đời sống 12 tháng x 6nk x 360.000đ/tháng = 25.920.000 đồng.
Ông S cho rằng Quyết định số 5122/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố L không đúng với quy định pháp luật, đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi chính đáng của gia đình ông. Nay ông khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 5122/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố L.
Người bị kiện: UBND thành phố L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng gồm Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại nhưng không có ý kiến mà chỉ cung cấp hồ sơ, tài liệu bồi thường cho ông S, đồng thời có đơn đề nghị vắng mặt suốt quá trình tố tụng vụ án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C: có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và yêu cầu Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện vì bà cho rằng Quyết định số 5122/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố L ban hành không đúng quy định làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của vợ chồng bà.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 21/2022/HC-ST ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh A đã tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn S.
Hủy Quyết định số 5122/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố L về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông Phạm Văn S và bà Nguyễn Thị C.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 27/9/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 12/QĐ-VKS-HC ngày 27/9/2022.
Ngày 05/10/2022, Tòa án nhân dân tỉnh A nhận đơn kháng cáo của UBND thành phố L đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn S và bà Nguyễn Thị C.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 12/QĐ-VKS-HC ngày 27/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A và UBND thành phố L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Ông N1 đại diện người bị kiện trình bày: Người khởi kiện đưa ra giá không công bằng của năm 2019 và năm 2021 khác nhau. Mỗi dự án có giá khác nhau. UBND thành phố L tuân thủ quy định của pháp luật về giá. Việc chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm: Ủy ban đã niêm yết công khai phương án bồi thường, các hộ dân có ký tên. Hộ ông S không có tìm kiếm việc làm. Ông S là cán bộ hưu trí. Quyết định 33 đã thay đổi Quyết định số 08. Ông S không có nhu cầu nên Ủy ban không giới thiệu tìm kiếm việc làm.
Người bảo vệ cho người bị kiện trình bày: Không tranh luận gì thêm.
Người khởi kiện trình bày: Không đồng ý lời trình bày của ông N1 đại diện người bị kiện. Không có báo ai có nhu cầu. Theo quy định tại Điều 28 khoản 2, khoản 3 thì người khởi kiện phải được hỗ trợ. Không tổ chức đào tạo nghề, Ủy ban hỗ trợ bằng tiền theo khoản 2 và Thông tư 37/TNMT và Nghị định 43/2014/NĐ-CP. Trước đây, tại phiên tòa mấy lần trước, ông N1 đồng ý tính phần đất giáp ranh theo Quyết định số 70/UBND tỉnh A nay lại không đồng ý nữa. Mong Hội đồng xét xử xem xét.
Ông N1 đại diện người bị kiện trình bày:Mong Hội đồng xét xử xem xét trên các tài liệu chứng cứ Ủy ban đã nộp. Không có quy định nào quy định giá đất năm 2019, năm 2021 cao hơn. Ủy ban đã thuê đơn vị tư vấn độc lập, thẩm định giá rõ ràng. Ủy ban đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. Việc đào tào nghề, tìm kiếm việc làm Quyết định 08 mỗi người 03 triệu đồng nhưng Quyết định 33 không còn việc này. Ông S là cán bộ hưu trí. Bà C mất sức lao động, 02 con ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ủy ban muốn người dân khi bị thu hồi đất phải có việc làm, học nghề để ổn định đời sống.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 12/QĐ-VKS-HC ngày 27/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A và kháng cáo của UBND thành phố L, Nội dung vụ án Chủ tọa đã tóm tắt đầy đủ và phần trình bày của các đương sự đã rõ. Án sơ thẩm cho rằng lỗi tờ trình làm căn cứ hủy quyết định của người bị kiện là không đúng. Đây là lỗi đánh máy, không ảnh hưởng đến nội dung vụ án. Người bị kiện cũng có văn bản đính chính. Án sơ thẩm so sánh dự án này với dự án khác để hủy quyết định của người bị kiện. Việc so sánh của cấp sơ thẩm không đúng quy định. Về chính sách đào tạo nghề, đất nông nghiệp là 120.000 đồng/m2, án sơ thẩm áp dụng Quyết định 70 cho giá là 139.000 đồng là không chính xác. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông S không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A và kháng cáo của UBND thành phố L, không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ ý kiến của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:
Ngày 13/6/2022, ông Phạm Văn S khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 5122/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố L về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông Phạm Văn S và bà Nguyễn Thị C. Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính, thời hiệu khởi kiện vẫn còn và Tòa án nhân dân tỉnh A thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Xét Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 12/QĐ-VKS-HC ngày 27/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A và kháng cáo của UBND thành phố L, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Về trình thự thủ tục, thẩm quyền ban hành Quyết định: đúng quy định pháp luật.
[2.2] Về nội dung:
[2.2.1] Ông Phạm Văn S, bà Nguyễn Thị C có diện tích 1.645m2 (đất trồng cây lâu năm) tọa lạc tại phường M1, thành phố L, tỉnh A, đất được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp GCNQSDĐ ngày 18/01/2019, thửa đất số 175, tờ bản đồ số 87.
Ngày 23/12/2021, UBND thành phố L ban hành Quyết định số 5121/QĐ- UBND thu hồi toàn bộ diện tích trên, đồng thời ban hành Quyết định 5122/QĐ- UBND bồi thường, hỗ trợ với giá 2.886.503.000 đồng.
Quyết định 968/QĐ-UBND ngày 10/5/2021 của UBND tỉnh A về việc phê duyệt giá đất bồi thường dự án Đầu tư xây dựng Khu Tây Đại học A mở rộng, phường M1, thành phố L theo đề nghị của Sở Tài nguyên và Môi trường tại Tờ trình số 231/TTr-STNMT ngày 28/4/2021.
Ngày 23/12/2021, UBND thành phố L có Quyết định số 5114/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Khu Tây Đại học A mở rộng, phường M1, thành phố L.
Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng Quyết định 968/QĐ-UBND ngày 10/5/2021 của UBND tỉnh A nêu: “Điều 1. Phê duyệt giá đất bồi thường dự án đầu tư xây dựng Khu Tây Đại học A mở rộng, phường M1, thành phố L theo đề nghị của Sở Tài nguyên và Môi trường tại Tờ trình số 231/TTr-STNMT ngày 28/4/2021” nhưng hồ sơ bồi thường khi thu hồi đất đối với ông Phạm Văn S (do người bị kiện cung cấp) không có Tờ trình 231/TTr-STNMT ngày 28/4/2021 mà chỉ có Tờ trình 232/TTr-STNMT ngày 28/4/2021 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A có nội dung giá đất đất trồng cây lâu năm là 1.261.000 đồng/m2 và cho rằng UBND thành phố L xác định giá đất bồi thường cho ông Phạm Văn S chưa chính xác về mặt thủ tục.
Đây chỉ là lỗi đánh máy. Tờ trình 231/TTr-STNMT ngày 28/4/2021 về việc phê duyệt giá đất bồi thường dự án đầu tư xây dựng công trình Trường mẫu giáo Hoa Phượng, phường M1, thành phố L được UBND tỉnh A phê duyệt tại Quyết định 967/QĐ-UBND ngày 10/5/2021; Tờ trình 232/TTr- STNMT ngày 28/4/2021 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh A phần tiêu đề ghi rõ “Tờ trình về việc Phê duyệt giá đất bồi thường dự án đầu tư xây dựng Khu Tây Đại học A mở rộng, phường M1, thành phố L”. UBND tỉnh cũng có văn bản đính chính.
UBND thành phố L đã tiến hành các bước thông báo công khai trong bà con nhân dân, thông tin về giá đất được phê duyệt, họp dân lấy ý kiến về giá đất, công bố mức thưởng. Ông S và bà C không có ý kiến gì thắc mắc, đồng ý với phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư và nhận tiền bồi thường, khen thưởng.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm dựa vào sai sót này để hủy Quyết định số 5122/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của UBND thành phố L về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông Phạm Văn S và bà Nguyễn Thị C là không cần thiết.
[2.2.2] Tòa án cấp sơ thẩm dựa vào chứng cứ do người khởi kiện cung cấp là Quyết định số 219/QĐ-UBND ngày 30/01/2019 bồi thường hỗ trợ tái định cư cho ông Phạm Trí D để cho rằng UBND thành phố L ban hành quyết định chưa đảm bảo tính công bằng trong việc bồi thường khi thu hồi đất và so sánh giá bồi thường là không đúng vì ông D có nhà ở và kinh doanh nhà trọ.
[2.2.3] UBND thành phố L cũng xem xét giải quyết hỗ trợ ổn định đời sống và chuyển đổi nghề nghiệp cho ông S, bà C1.
Hỗ trợ chuyển đổi nghề với mức hỗ trợ bằng tiền bằng 03 lần giá đất nông nghiệp cùng loại. Tuy nhiên, theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 08/8/2022 xác định toàn bộ diện tích đất của ông Phạm Văn S nằm trong khu vực 300m tính từ đường ranh giới hành chính phường M - Mỹ Hòa. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 9 vào Quyết định 70/2019/QĐ-UBND ngày 23/12/2019 của UBND tỉnh A về ban hành bảng giá các loại đất áp dụng giai đoạn 2020-2024 trên địa bàn tỉnh A thì đất ông S thuộc đất khu vực giáp ranh giữa 02 phường M, Mỹ Hòa. Do đó giá đất theo quy định của Quyết định 70/2019/QĐ-UBND là (158.000đồng/m2 + 120.000đồng/m2): 2 = 139.000đồng/m2.
Như vậy tiền hỗ trợ phải được tính là (139.000 đồng/m2 x 3) x 1.645m2. Tuy nhiên tại Quyết định 5122/QĐ-UBND chỉ tính (120.000 đồng/m2 x 3) x 1.645m2 là không đúng quy định.
[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đánh giá các chứng cứ chưa hoàn toàn đúng. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 12/QĐ-VKS-HC ngày 27/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A và một phần kháng cáo của UBND thành phố L, sửa án sơ thẩm như đã phân tích nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị sửa án phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận phần phù hợp.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm:
Do sửa án nên UBND thành phố L không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 30; 32; 116; Điều 193; khoản 2 Điều 241; Điều 348 và Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Điều 62; Điều 66; khoản 3 Điều 69 của Luật Đất đai;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A;
Chấp nhận một phần kháng cáo của Ủy ban nhân dân thành phố L;
Sửa một phần Bản án hành chính sơ thẩm số 21/2022/HC-ST ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh A, cụ thể như sau:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn S.
Hủy một phần Quyết định số 5122/QĐ-UBND ngày 23/12/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố L về hỗ trợ ổn định đời sống.
2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hành chính sơ thẩm.
3. Chi phí tố tụng là 1.300.000 đồng (Một triệu ba trăm nghìn đồng), ông Phạm Văn S tự nguyên chịu và đã thực hiện xong.
4. Về án phí hành chính phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu.
Hoàn tạm nộp tiền án phí hành chính phúc thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) đồng cho Ủy ban nhân dân thành phố L theo Biên lai thu số 0000325 ngày 05/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh A.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 435/2023/HC-PT về khiếu kiện quyết định bồi thường hỗ trợ và giải quyết khiếu nại
Số hiệu: | 435/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 19/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về