TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 77/2024/HC-PT NGÀY 29/02/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRẢ LỜI ĐƠN VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 29 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý 394/2023/TLPT-HC ngày 08 tháng 12 năm 2023 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc trả lời đơn và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 14/2023/HC-ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
* Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị H; Địa chỉ: A H, L, N, Khánh Hòa. Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư Đỗ Thành N - Văn phòng luật sư Đỗ Thành N, Đoàn Luật sư Đ1; Địa chỉ: A Đ, phường C, quận T, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
* Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân thành phố N.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Đại D - Phó Chủ tịch UBND thành phố N. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân thành phố N và Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N: Ông Nguyễn Khánh N1- Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố N và ông Trần Huỳnh Nhật T- Nhân viên Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố N. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).
3. Ủy ban nhân dân tỉnh K. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).
4. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân tỉnh K và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K: Ông Nguyễn Đăng M - Trưởng phòng Đăng ký và cấp Giấy chứng nhận và ông Ngô Anh K - Nhân viên phòng Đăng ký và cấp Giấy chứng nhận. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Đặng Đình H1. Địa chỉ: A H, L, N, Khánh Hòa. Có mặt.
2. Công ty cổ phần T4. Địa chỉ: 8 T, L, N, Khánh Hòa. Người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần T4: Chị Lê Thị Ái H2 – Kế toán Công ty cổ phần T4. (Theo văn bản ủy quyền ngày 25/7/2023). Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).
3. Ông Nguyễn Lam G (chết) và bà Võ Thị Tuyết V; Địa chỉ: A H, L, N, Khánh Hòa. Người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Lam G: Bà Võ Thị Tuyết V, chị Nguyễn Võ Nam G1, chị Nguyễn Võ Kim D1, chị Nguyễn Võ Nam H3; Cùng địa chỉ: A H, L, N, Khánh Hòa. Vắng.
4. Ông Đỗ Thanh T1 và bà Lê Thị Kim L, ông Đỗ Xuân H4 Cùng địa chỉ: số A (số D cũ) H, L, N, Khánh Hòa. Vắng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Năm 1990, vợ chồng ông H1, bà H có mua lại ngôi nhà số D (nay là số nhà A, đường H, phường L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa), tổng diện tích là 257,12m2 thuộc sở hữu của bà Đặng Thị Đ và con trai là Nguyễn Văn H5. Vợ chồng ông H5, bà H cùng mẹ con bà Đ đã ký Giấy bán nhà ngày 19/05/1990 và được UBND phường L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa chứng nhận ngày 21/05/1990, ghi rõ diện tích lô đất là 257,12m2. Trong hồ sơ bàn giao nhà và đất thời điểm đó bao gồm cả Giấy đăng ký trước bạ số 46/90-TB/ND/MB ngày 26/02/1990 và Sơ đồ mặt bằng thể hiện chi tiết diện tích lô đất trên rất rõ ràng.
Sau đó, ông H5, bà H được cấp Giấy đăng ký trước bạ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất ở thành thị số 415/90/TB/ND/MB do Sở xây dựng và công trình đô thị tỉnh Khánh Hòa cấp ngày 06/10/1990 ghi nhận “Cấu trúc ngôi nhà: ....Diện tích xây cất 47,14m2, diện tích đất chiếm 239,19m2. Diện tích sử dụng chính 35,52m2, diện tích phụ 9,90m2...”. Lý do có sự thay đổi về diện tích ở thời điểm này là khi sang tên đã trừ lộ giới, dự kiến trừ 5,5m lộ giới, nhưng trên thực tế chỉ trừ đường 3,1m (theo biên bản xác nhận khối lượng giải tỏa công trình ngày 05 tháng 08 năm 1992 và theo chiều dài hiện tại của lô đất so với sơ đồ mặt bằng). Ngày 08 tháng 7 năm 2015, gia đình bà H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số vào sổ: CH 02333/22363, trên GCNQSDĐ ghi nhận diện tích là 247m2 do thời điểm này đang có dự án V, sau khi đo và cấp lại sổ đỏ thì diện tích thành 247m2. Gia đình ông H5, bà H phải đóng tiền tăng thêm 7,8m2 diện tích so với Giấy đăng ký trước bạ số 415/90/TB/ND/MB. Sau đó, bà H đóng 800.000đ cho Văn phòng đăng ký đất đai để yêu cầu đo đạc, kiểm tra lại diện tích nhưng họ chỉ tới xem, không đo lại hiện trạng rồi bảo sổ đo đúng rồi, yêu cầu bà H ký biên bản, bà H không đồng ý nên họ đi luôn. Sau đó gia đình bà H có mời vài công ty đo lại nhưng không bên nào dám nói sổ sai cũng không dám ký hồ sơ đo đạc từ đó cho đến nay, vì thế không có số liệu để xác thực.
Như vậy, rõ ràng khi có dự án Vlap cấp GCNQSD đất trả về đúng đất của nhà bà H vẫn còn thiếu gần 1m2 nhưng lại yêu cầu gia đình đóng tiền tăng diện tích là vì sao? Thời điểm tính trừ lộ giới, thực tế chỉ vào có 3,1m cơ quan có thẩm quyền sai, sao lại bắt gia đình bà H chịu phần thiệt hại. Tại giấy bán nhà và Sơ đồ mặt bằng gốc mang tên bà Đ và anh H5 có thể hiện căn nhà cấp 4, phần diện tích phụ, toàn bộ căn nhà và phần tường bao của phần diện tích phụ này đến hiện tại vẫn còn nguyên vẹn, nhà tôi đã không đập bỏ và xây mới. Trên thực tế, diện tích hiện trạng của căn nhà lớn hơn so với trong sơ đồ mặt bằng cấp năm 1990 nhưng khi cấp sổ theo VLAP diện tích cấp đổi còn thấp hơn diện tích thể hiện trong sơ đồ mặt bằng cụ thể: Trên sơ đồ diện tích căn nhà hình chữ nhật vuông vức với chiều ngang là 4,8m, đổi Vlap chỉ còn 4,6m trong khi hiện trạng thực tế căn nhà hình thang khúc đầu 4m85 và khúc đuôi nở ra 5m15 (chưa tính miếng đan bên ngoài đã bị hàng xóm đập). Trên giấy bán nhà và sơ đồ mặt bằng cấp năm 1990, diện tích khoảng đất trống phía sau có tường bao, hiện trạng 4,7m, sơ đồ mặt bằng cũ là 4,5m, đổi VLAP còn 4,2m. Tổng hiện trạng của thửa đất tính luôn tường bao xây từ lúc mua cho tới nay: Chiều ngang 3m thì thực tế gần tới 3m26, 4m5 là 4m7, 4m8 là 5m15. Như vậy, so với giấy tờ năm xưa hiện trạng thay đổi, đáng lẽ nhà bà H phải được cấp đổi theo hiện trạng sử dụng vì đã công khai sử dụng liên tục gần 30 năm nay, hoàn toàn không xây mới, thậm chí căn nhà cấp 4 ở giữa và một phần tường bao hiện tại cũng không phải do vợ chồng ông H5, bà H xây cất và trước đó cũng không có tranh chấp gì với hai người hàng xóm quá cố là ông Lê Mạnh B và ông Nguyễn Xuân T2. Trước đó ngày 14/8/2002, vợ chồng bà H cùng ông Nguyễn Lam G, là chủ sở hữu trước của nhà 4C đường H, giáp cạnh nhà bà H đã có Giấy thỏa thuận (được chứng thực bởi địa chính phường và chủ tịch UBND phường năm đó) về việc nhà 4C xây nhà có xây lấn nửa bức tường phía sau dài 18,7m thuộc quyền sở hữu của nhà bà H. Ông H5, bà H đã thỏa thuận nửa bức tường phía sau do nhà 4C xây lấn sẽ được giữ nguyên đổi lại bức tường chung phía trước dài 16,5m sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà 4B là nhà bà H. Nhưng cuối năm 2016, người thừa kế hợp pháp của ông G là bà Võ Thị Tuyết V, nhà 4C đã tiến hành sửa chữa nhà, không những không trả bức tường chung phía trước cho nhà ông H5, bà H như đã cam kết, bà V còn cho đắp thêm một bức tường khác áp sát nửa bức tường năm xưa đã xây lấn, việc đắp thêm này đã khiến cho nhà ông H5, bà H phía trên không từ gãy hai khúc (năm 2004) hiện nay bị gãy thành 4 khúc đeo lên con lươn mái nhà cấp 4 của ông H5, bà H đắp dày thêm, trong khi theo sơ đồ mặt bằng năm 1990, nhà đất của ông H5, bà H giáp ranh với nhà và vật lý một đường thẳng và toàn bộ tường bao, con lươn mái nhà bên dưới mà bà H xem năm 1991 cũng được xây thẳng theo sơ đồ năm 1990.
Từ những nội dung đã trình bày trên, thể hiện việc UBND thành phố N cấp các GCNSDĐ cho 3 hộ tại các địa chỉ 14, 16, A H, L, N không đúng với diện tích thực tế, bà H không đồng ý với nội dung trả lời đơn tại Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018 và Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N. Vì vậy, bà H yêu cầu hủy Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018, Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N, các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 213051, số vào sổ CHO2333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N cấp cho ông Đặng Đình H1, bà Nguyễn Thị H; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 274624 ngày 04/6/2013 do UBND thành phố N cấp cho ông Đỗ Xuân H4; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cấp cho ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V. Ngày 03/11/2022, bà H rút một phần yêu cầu khởi kiện hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cấp cho ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V. Đồng thời bổ sung yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 989050 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp ngày 06/5/2019 cho Công ty cổ phần T4 (cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 274624, số vào sổ cấp GCN CH01160/22363 cấp ngày 04/6/2013 cho ông Đỗ Xuân H4). * Tại văn bản số 5213/UBND-TNMT ngày 28 tháng 6 năm 2019, văn bản số 7167/UBND-TNMT ngày 03/10/2022 người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố N, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N trình bày:
Đối với yêu cầu của người khởi kiện về việc hủy Văn bản số 4726/UBND- QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N, việc bà Nguyễn Thị H phản ánh nhà số A (số D cũ) đường H, phường L, thành phố N lấn chiếm khoảng không của gia đình Bà, đã được UBND thành phố N xem xét, giải quyết tại văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 về việc trả lời đơn cho bà Nguyễn Thị H. Như vậy, nội dung đơn nêu trên của bà Nguyễn Thị H đã được UBND thành phố N xem xét, giải quyết theo quy định.
Đối với nội dung bà Nguyễn Thị H phản ánh công trình Khách sạn L3 tại số A (sổ 04 cũ) đường H, phường L, thành phố N (giáp ranh nhà bà) xây dựng lấn sang khoảng không gian của gia đình bà. Công trình Khách sạn L3 tại số D đường H, phường L do Công ty cổ phần T4 - làm chủ đầu tư xây dựng theo Giấy phép xây dựng số 178/GPXD-SXD ngày 11/12/2017 do Sở Xây dựng cấp. Quy mô: 27 tầng (bao gồm tầng kỹ thuật + tầng mái) + 01 tầng hầm. Như vậy, nội dung nêu trên của bà Nguyễn Thị H đã được giải quyết theo quy định.
Đối với yêu cầu hủy Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018 của UBND thành phố N và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CA 213051, số vào sổ: CH02333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N cấp cho ông Đặng Đình H1, bà Nguyễn Thị H, vì tọa độ xác định tại Giấy chứng nhận nêu trên sai số với hiện trạng mà gia đình bà đang sử dụng: Qua kiểm tra hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này thì thấy nhà đất tại số A (số D cũ) H, phường L của ông Đặng Đình H1 và bà Nguyễn Thị H đã được Sở Xây dựng và Công trình Đô thị tỉnh P cấp Giấy đăng ký trước bạ số 415/90/TB/NĐ/MB ngày 6/10/1990 (kèm theo sơ đồ mặt bằng). Năm 2015, ông Đặng Đình H1 và bà Nguyễn Thị H đăng ký đơn xin cấp Giấy chứng nhận lần đầu (theo dự án V) đối với nhà đất trên thuộc thửa đất số 17, tờ bản đồ số 17 (theo Trích lục bản đồ địa chính phường L được Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành, phố N thẩm định ngày 01/4/2015), với diện tích 247m2. Hồ sơ đăng ký cấp Giấy chứng nhận thửa đất trên của ông H1, bà H được UBND phường L tiến hành niêm yết công khai (trong thời gian 15 ngày kể từ ngày 24/3/2014 đến ngày 07/4/2014) nhưng không bị khiếu nại, tranh chấp. Theo đó, UBND thành phố N đã xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CHO23 33/22363 ngày 08/7/2015 tại Mục III, trang 3 của Giấy chứng nhận về Sơ đồ thửa đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, thửa đất được trích lục từ bản đồ địa chính phường L, với diện tích 247m2. Hiện nay, bà Nguyễn Thị H cho rằng ranh giới, vị trí, kích thước cạnh thửa đất theo tọa độ VN-2000 thể hiện tại sơ đồ thửa đất trang 3 của Giấy chứng nhận số CH02333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N đã cấp cho ông H1, bà H không đúng với hiện trạng mà gia đình bà đang sử dụng tại nhà đất trên và đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận cho gia đình bà. Ngày 17/10/2017, Chi nhánh Văn phòng Đ2 phối hợp với UBND phường L tiến hành kiểm tra hiện trạng thửa đất của bà Nguyễn Thị H tại địa chỉ số A (số D cũ) Hùng Vương và thửa đất tại số D H của Công ty cổ phần T4, đã xác định: Ranh giới theo tọa độ V - 2000 của hai thửa đất trên Giấy chứng nhận của các bên không có sự trùng lặp về ranh giới. Như vậy, việc cấp Giấy chứng nhận của UBND thành phố N cho bà Nguyễn Thị H và Công ty cổ phần T4 là đúng quy định và không có sự chồng lấn ranh giới. Do đó, việc bà Nguyễn Thị H đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận theo hiện trạng sử dụng đất của bà là không có cơ sở xem xét. Như vậy qua kiểm tra hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND thành phố N ban hành Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018 trả lời đơn cho bà Nguyễn Thị H là đúng quy định pháp luật.
Đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất tại nhà số A (04C cũ) và 14 (04 cũ) H, phường L, thành phố N: Nhà đất tại số A (04C cũ) H, phường L, thành phố N được UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất ở số 147/2002 ngày 12/6/2002 cho bà Trịnh Thị Ngọc L1 với diện tích 295m2. Ngày 29/7/2002 ông Nguyễn Lam G mua lại nhà đất nêu trên của bà Trịnh Thị Ngọc L1, được UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất ở số 1498/2002 ngày 29/7/2002 sang tên ông Nguyễn Lam G. Ngày 10/3/2004, ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V được UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất ở số 519/2004 với diện tích 295m2. Nhà đất tại số A (04 cũ) H, phường L, thành phố N của ông Đỗ Thanh T1 và bà Lê Thị Kim L đã được Sở Xây dựng và Công trình đô thị tỉnh Phú Khánh cấp Giấy đăng ký trước bạ số 355/TB/NĐ/MB ngày 12/9/1986 (kèm sơ đồ mặt bằng) với diện tích 701,46m2. Năm 2006, ông Đỗ Thanh T1 và bà Lê Thị Kim L được UBND thành phố N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H12293 ngày 30/10/2006. Ngày 04/11/2008, ông Đỗ Xuân H4 nhận tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng số 78 tại UBND phường L (được Chi nhánh Văn phòng Đ2 chỉnh lý sang tên ông Đỗ Xuân H4 vào ngày 19/11/2008). Năm 2013, ông Đỗ Xuân H4 tiến hành làm thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo dự án V) đối với nhà đất trên và đã được UBND thành phố N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CHO1160/22363 ngày 04/6/2013.
Như vậy, trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Xuân H4, ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V đã thực hiện theo quy định. Việc bà Nguyễn Thị H yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có cơ sở Hiện nay, ông Đỗ Xuân H4 đã chuyển nhượng toàn bộ thửa đất trên, nay là thửa đất số 18, tờ bản đồ số 17 (Hệ tọa độ VN-2000), cho Công ty Cổ phần T4; được Giám đốc Văn phòng Đ3 (thừa ủy quyền Giám đốc Sở T) đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT-17219 ngày 06/5/2019 cho Công ty Cổ phần T4 đối với thửa đất trên.
* Ủy ban nhân dân tỉnh K kh ng có văn bản trình bày ý kiến và cử người tham gia tố tụng.
* Tại văn bản số 2954/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 21/7/2023, người bị kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K trình bày:
Giấy chứng nhận số phát hành BL 274624, số vào sổ cấp GCN: CH 01160/22363 do UBND thành phố N cấp ngày 04/6/2013 cấp cho Ông Đỗ Xuân H4 tại D H, phường L, thành phố N. Thông tin về thửa đất: Diện tích đất:
705,3m2, mục đích sử dụng: Đất ở tại đô thị; thời hạn sử dụng: lâu dài; hình thức sử dụng: công nhận QSDĐ như giao đất có thu tiền sử dụng đất. Tài sản gắn liền với đất: Nhà 3 tầng, diện tích xây dựng: 411,04m2.
Ngày 20/8/2014, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố N chỉnh lý chuyển nhượng cho ông Khương Anh V1 và bà Lê Thanh H6. Ngày 27/8/2014, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố N chỉnh lý chuyển mục đích sử dụng từ đất ở đô thị sang đất sản xuất kinh doanh.
Ông Khương Anh V1 và bà Lê Thanh H6 ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho Công ty cổ phần T4 được Văn phòng C - Phạm Tuấn chứng thực số 2328, quyển 02/2016 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/10/2016.
Căn cứ Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014; điểm a khoản 1 Điều 17 và điểm a khoản 1 Điều 18 Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ T5, Ngày 21/10/2016, Văn phòng Đ3 chỉnh lý chuyển nhượng cho Công ty cổ phần T4. Ngày 17/4/2019, Công ty cổ phần T4 nộp hồ sơ Đăng ký bổ sung tài sản gắn liền với đất (cấp Giấy chứng nhận mới).
Công ty cổ phần T4 được Sở Xây dựng cấp Giấy phép xây dựng số 178/GPXD-SXD ngày 11/12/2017, với các nội dung sau:
Tên công trình: Khách sạn - Diện tích xây dựng: 636,36m2;
- Diện tích sàn xây dựng (bao gồm tầng hầm): 16.724,23m2;
- Số tầng: 27 tầng (bao gồm tầng kỹ thuật và tầng mái) + 01 tầng hầm. Công ty cổ phần T4 đã xây dựng và đăng ký chứng nhận quyền sở hữu tài sản như sau:
Tên công trình: Khách sạn - Diện tích xây dựng: 614m2;
- Diện tích sàn xây dựng (bao gồm tầng hầm): 16.601,7m2;
- Số tầng: 27 tầng (bao gồm tầng kỹ thuật và tầng mái) + 1 tầng hầm.
Vị trí, sơ đồ tài sản thể hiện theo Sơ đồ công trình xây dựng số 200/2019/SĐN do Văn phòng Đăng ký xác lập ngày 31/1/2019. Qua kiểm tra, Văn phòng Đăng ký nhận thấy công trình xây dựng phù hợp với Giấy phép xây dựng số 178/GPXD-SXD. Tài sản nhà cấp 4 trên Giấy chứng nhận số BL 274624 hiện trạng không còn nữa, Công ty đề nghị hủy tài sản trên Giấy chứng nhận BL 274624 do phá dỡ để xây dựng Khách sạn.
Căn cứ Khoản 2 Điều 32, Điều 70 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Điều 26 Quy chế ban hành kèm Quyết định số 2721/QĐ-UBND ngày 13/9/2017 của UBND tỉnh về việc ban hành quy chế giải quyết thủ tục hành chính về đất đai liên quan đến tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số phát hành CP 989050 số vào sổ cấp Giấy chứng nhận CT- 17219 ngày 06/5/2019 chứng nhận sở hữu tài sản trên đất cho Công ty cổ phần T4. Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xem xét, giải quyết vụ kiện theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần T4 trình bày:
Ngày 25/5/2022, Công ty cổ phần T4 (địa chỉ: 8 T, N, Khánh Hòa) có nhận được Thông báo về việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa ngày 14/2/2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc trả lời đơn và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” do bà Nguyễn Thị H, địa chỉ:
số A H, phường L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa là người khởi kiện với người bị kiện là UBND thành phố N và Chủ tịch UBND thành phố N. Công ty CP T4 là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án nêu trên, trong đó bà Nguyễn Thị H yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho Công ty chúng tôi đối với thửa đất tại số A H ( Số D cũ), phường L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Việc bà Nguyễn Thị H (người khởi kiện) yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho Công ty chúng tôi tại số A H ( Số D cũ), phường L, Tp ., tỉnh Khánh Hòa là không có cơ sở. Bởi vì quyền sử dụng đất trên do chúng tôi nhận chuyển nhượng nguyên vẹn từ chủ sử dụng đất trước đây, có ranh giới và tọa độ đầy đủ, rõ ràng. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chúng tôi sau khi đã kiểm tra, xác định thông tin dựa trên giao dịch hợp pháp, công khai và ngay tình trên cơ sở thẩm tra tọa độ và ranh giới của thửa đất chúng tôi nhận chuyển nhượng. Trong quá trình sử dụng đất, chúng tôi không lấn chiếm bất cứ một phần đất nào của bà H. Hiện nay trên phần đất đó chúng tôi đã xây khách sạn:
+ Quyết định số 2868/QĐ-UBND ngày 26/9/2017 Phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của Dự Án Khách sạn Libra do UBND tỉnh.
+ Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự số 821/GCN cấp ngày 16/1/2019 do C1 + Quyết định về việc công nhận hạng cơ sở lưu trú du lịch số 944/QĐ- TCDL ngày 26/12/2019 do Bộ V2, Thể T3 và Du L2, T6 cấp + Giấy chứng nhận thẩm duyệt thiết kế về PCCC số 113/TD-PCCC ngày 25/7/2017 do Bộ Công An Cảnh Sát PC & CC tỉnh C1 Từ phần đất mua hợp pháp và xây dựng đúng luật, Công ty CP T4 hoàn toàn phản đối yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện và kính đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bác phần yêu cầu của người khởi kiện về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho Công ty CP T4 nói trên.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Tuyết V và các người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ng Nguyễn Lam G trình bày:
Bà không đồng ý yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với nhà đất tại số A (4C cũ) đường H, phường L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, vì gia đình bà được UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 5110125 ngày 10/03/2004 và sinh sống ổn định tại nhà đất nêu trên từ năm 1984 đến nay.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 14/2023/HC-ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 206, khoản 1 Điều 348 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
* Tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 5110125, hồ sơ gốc số 519/2004 do Ủy ban nhân dân tỉnh K cấp ngày 10/3/2004 cho ông Nguyễn Lam G (chết) và bà Võ Thị Tuyết V. 2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Nguyễn Thị H về việc hủy Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018, Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N; Các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CA 213051, số vào sổ CHO2333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N cấp cho ông Đặng Đình H1, bà Nguyễn Thị H; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 274624 ngày 04/6/2013 do UBND thành phố N cấp cho ông Đỗ Xuân H4; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 989050 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp ngày 06/5/2019 cho Công ty cổ phần T4. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 07/8/2023, bà Nguyễn Thị H có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:
- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị H; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận; Xét thấy:
[1] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị H; nhận thấy:
[1.1]. Đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 274624 ngày 04/6/2013 do UBND thành phố N cấp cho ông Đỗ Xuân H4; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 989050 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K cấp ngày 06/5/2019 cho T4. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 213051, số vào sổ cấp GCN: CH 02333/22363 do UBND thành phố N cấp ngày 08/7/2015 cho ông Đặng Đình H1, bà Nguyễn Thị H; nhận thấy:
- Nguồn gốc nhà và đất thửa đất số 18, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: số A (số D cũ) H, phường L, thành phố N là của ông Đỗ Thanh T1 và bà Lê Thị Kim L, được Sở Xây dựng và Công trình đô thị tỉnh Phú Khánh cấp Giấy đăng ký trước bạ số 355/TB/NĐ/MB ngày 12/9/1986 (kèm sơ đồ mặt bằng) với diện tích 701,46m2.
Năm 2008, ông Đỗ Xuân H4 được nhận tặng cho nhà và đất này và được UBND thành phố N cấp GCNQSDĐ số BL 274624 ngày 04/6/2013 cho ông Đỗ Xuân H4, diện tích 705,3m2.
Ngày 20/8/2014, ông Đỗ Xuân H4 chuyển nhượng thửa đất số 18, tờ bản đồ số 17 cho ông Khương Anh V1, bà Lê Thanh H6. Sau đó, ông V1, bà H6 chuyển nhượng lại toàn bộ thửa đất này cho Công ty cổ phần T4. Ngày 06/5/2019, Công ty cổ phần T4 được Sở T cấp GCNQSDĐ số CP 989050, diện tích 705,3m2.
- Nguồn gốc nhà, đất của bà H6: Bà H6, ông H1 mua lại nhà đất số D H, phường L, thành phố N (nay là thửa đất số 17, tờ bản đồ số 17) của bà Đặng Thị Đ, ông Nguyễn Văn H5. Theo Giấy bán nhà ngày 19/5/1990 giữa bà Đ, ông H5 cho vợ chồng bà Nguyễn Thị H, ông Đặng Đình H1, có diện tích đất là 257,12m2. Ngày 08/7/2015, bà Nguyễn Thị H, ông Đặng Đình H1 được cấp GCNQSDĐ số CA 213051, diện tích 247m2.
Tại thời điểm này không ai khiếu nại gì về diện tích đất được cấp.
- Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa và kết quả đo vẽ của Công ty TNHH Đ4 ngày 11/8/2022 (theo sự chỉ dẫn ranh giới của các bên đương sự) thể hiện ranh đo thực tế cụ thể như sau:
Thửa đất số 17: 259,8m2;
Thửa đất số 18: 690m2;
Thửa đất số 19: 297,1m2;
Như vậy, thửa đất số 17 (của bà H, ông H1) có diện tích thực tế lớn hơn so với GCNQSDĐ là 12,8m2 (259,8m2 – 247m2); thửa đất số 18 (của Công ty cổ phần T4) ít hơn so với GCNQSDĐ 15,3m2 (705,3m2 – 690m2). Đồng thời, ranh giới đất sử dụng thực tế của bà H, ông H1 với Công ty cổ phần T4 không có sự chồng lấn lên nhau.
- Ngoài ra, năm 2017 khi Công ty cổ phần T4; giữa công ty và vợ chồng bà Nguyễn Thị H cũng đã lập Biên bản thỏa thuận, về việc tạm sử dụng khoảng không. Quá trình công ty thi công có sự giám sát của gia đình bà H, các bên cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về việc Công ty cổ phần T4 lấn chiếm đất hoặc không gian trên đất.
- Mặt khác, theo kết quả xem xét thẩm định thì bức tường riêng của nhà bà H, ông H1 phần tiếp giáp với đất của Công ty cổ phần T4 còn vượt ra ngoài GCNQSDĐ đã được cấp cho bà H, ông H1. Do đó, không có cơ sở để xác định GCNQSDĐ đã cấp cho Công ty cổ phần T4 là chồng lấn lên đất của bà H, ông H1. - Đồng thời, quá trình sử dụng đất, ranh giới thửa đất 17, 18 không thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất. Bức tường bao phần diện tích phụ và toàn bộ căn nhà của bà H vẫn còn nguyên vẹn.
Diện tích đo vẽ thực tế hiện nay tăng, giảm so với GCNQSDĐ đã cấp là do cách đo, sai số giữa các lần đo, không phải do lấn chiếm hoặc cấp chồng lấn diện tích lên nhau.
[1.2]. Đối với yêu cầu hủy Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018; Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N; nhận thấy:
- Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N trả lời đơn của bà Nguyễn Thị H đề nghị xử lý nhà số D H xây dựng lấn sang nhà bà:
Ngày 04/7/2017, UBND phường L tiến hành hòa giải tranh chấp bức tường chung giữa hai nhà nhưng không thành.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, thì tranh chấp đất đai mà đương sự có GCNQSDĐ và tranh chấp về tài sản khác gắn liền với đất do Tòa án nhân dân giải quyết. Do vậy, Văn bản số 4726/UBND-QLĐT của UBND thành phố N: hướng dẫn bà H gửi đơn đến Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang để được xem xét giải quyết tranh chấp là đúng quy định của pháp luật.
- Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018 của UBND thành phố N về việc trả lời đơn của bà Nguyễn Thị H phản ánh công trình dự án Khách sạn L3 tại số A (số D cũ) H, L, N (giáp ranh nhà bà H) xây dựng lấn sang khoảng không gia đình bà H và đề nghị UBND thành phố N cấp lại GCNQSDĐ đối với nhà và đất tại số A (số D cũ) H, L, N do tọa độ xác định ranh giới đất tại Giấy chứng nhận số CH 02333/22363 sai so với hiện trạng mà gia đình bà H đang sử dụng:
Bà H phản ánh công trình dự án Khách sạn L3 xây dựng lấn sang khoảng không gia đình bà H đã được Sở Xây dựng tỉnh K xem xét, trả lời. Do UBND thành phố N không phải là cấp có thẩm quyền giải quyết tiếp theo sau khi đã được Sở Xây dựng xem xét, trả lời nên UBND thành phố N báo lại cho bà H biết việc phản ánh của bà H đã được Sở Xây dựng giải quyết, là đúng pháp luật.
Từ các nhận định trên, án sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H là có căn cứ, đúng pháp luật. Bà Nguyễn Thị H kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án, nên không có căn cứ để chấp nhận; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.
QUYẾT ĐỊNH
1. Bác kháng cáo của bà Nguyễn Thị H; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 14/2023/HC-ST ngày 01/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
2. Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm. Đã nộp đủ tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010306 ngày 05/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa (do Đặng Phương U nộp thay).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 77/2024/HC-PT về khiếu kiện quyết định hành chính trả lời đơn và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 77/2024/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 29/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về