TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 98/2017/DS-ST NGÀY 24/10/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 45/2017/TLST-DS ngày 13 tháng 02 năm 2017 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 340/2017/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 09 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 258/2017/QĐST-DS ngày 25 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Quỹ tín dụng Nhân dân cơ sở T
Địa chỉ: đường M, xã N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Quốc V, sinh năm 1993 (có đơn xin vắng mặt)
(Văn bản ủy quyền ngày 18/01/2017)
2. Bị đơn:
a) Ông Lê Công T, sinh năm 1990 (vắng mặt)
b) Bà Lê Thị Kim H, sinh năm 1990 (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: đường M, xã N, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 18/01/2017 và bản tự khai ngày 19/5/2017 và các biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 26/7/2017 và ngày 28/8/2017, nguyên đơn Quỹ tín dụng Nhân dân cơ sở T (gọi tắt là Quỹ tín dụng T) do ông Phạm Quốc V làm đại diện theo ủy quyền trình bày:
Vào ngày 03/8/2015, ông Lê Công T và bà Lê Thị Kim H có ký kết hợp đồng tín dụng với Quỹ tín dụng T vay số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng theo Hợp đồng tín dụng số 917; với lãi suất là 1,5%/tháng; thời hạn vay là 48 tuần; mục đích vay tiêu dùng.
Trong thời gian vay, ông T và bà H đã không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán cho Quỹ tín dụng T theo như thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Quỹ tín dụng T đã nhiều lần thông báo, nhắc nhở ông T và bà H trả nợ nhưng ông T và bà H vẫn không có thiện chí trả nợ. Đến ngày 04/7/2016, khoản nợ trên chuyển sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 06/01/2017, ông T và bà H còn nợ Quỹ tín dụng T số tiền gốc và tiền lãi là 17.413.000 (Mười bảy triệu bốn trăm mười ba nghìn) đồng.
Sau khi Quỹ tín dụng T khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh thì ông T và bà H có thanh toán cho Quỹ tín dụng T số tiền 7.413.000 (Bảy triệu bốn trăm mười ba nghìn) đồng và hứa đến ngày 25/3/2017 sẽ trả hết số tiền còn lại là 10.000.000 (Mười triệu) đồng. Nhưng đến hạn, ông T và bà H đã không thực hiện đúng như lời hứa.
Nay Quỹ tín dụng T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Công T và bà Lê Thị Kim H có nghĩa vụ thanh toán số tiền còn nợ là 10.000.000 (Mười triệu) đồng cho Quỹ tín dụng T, trả một lần ngay sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cậ n, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng ông T, bà H vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến bằng bất cứ văn bản nào.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:
+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có cơ sở xác định đây là vụ án Dân sự về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Ông Lê Công T, bà Lê Thị Kim H có nơi cư trú tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về sự vắng mặt của bị đơn:
Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng ông T, bà H vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử tiến hành xử vắng mặt ông T, bà H theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[3] Về xét yêu cầu của nguyên đơn:
Căn cứ vào Giấy đề nghị vay vốn ngày 03/8/2015; Hợp đồng tín dụng kiêm khế ước nhận nợ số 917 ngày 03/8/2015 cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ thì có cơ sở xác định giữa Quỹ tín dụng T và ông Lê Công T, bà Lê Thị Kim H có giao kết hợp đồng với nhau, số tiền vay là 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng. Tính đến ngày 06/01/2017, ông T và bà H còn nợ Quỹ tín dụng T số tiền gốc và tiền lãi là 17.413.000 (Mười bảy triệu bốn trăm mười ba nghìn) đồng.
Sau khi Quỹ tín dụng T khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh thì ông T và bà H có thanh toán cho Quỹ tín dụng T số tiền 7.413.000 (Bảy triệu bốn trăm mười ba nghìn) đồng; ông T, bà H còn nợ số tiền là 10.000.000 (Mười triệu) đồng.
Nay Quỹ tín dụng T có ông Phạm Quốc V làm đại diện yêu cầu ông Lê Công T và bà Lê Thị Kim H trả số tiền còn nợ là 10.000.000 (Mười triệu) đồng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của Quỹ tín dụng T là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Mặt khác, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, phía bị đơn mặc dù đã được tống đạt triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt, không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, điều này chứng tỏ phía bị đơn không có thiện chí và không có ý thức tôn trọng pháp luật, tự ý từ bỏ quyền được chứng minh của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu và chứng cứ của nguyên đơn buộc ông T, bà H có trách nhiệm trả cho Quỹ tín dụng T số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng, trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
[4] Về án phí: Do yêu cầu của Quỹ tín dụng TSG được chấp nhận nên ông Lê Công T và bà Lê Thị Kim H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 26; điểm b khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 179; Điều 207; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng Điều 280 và Điều 463 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 và khoản 1 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của Quỹ tín dụng Nhân dân cơ sở T về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với ông Lê Công T, bà Lê Thị Kim H.
2. Buộc ông Lê Công T và bà Lê Thị Kim H có trách nhiệm trả cho Quỹ tín dụng Nhân dân cơ sở T số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Thi hành tại cơ quan Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Ông Lê Công T và bà Lê Thị Kim H còn phải tiếp tục trả cho Quỹ tín dụng Nhân dân cơ sở T khoản lãi phát sinh từ ngày 25/10/2017 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.
3. Về án phí: Ông Lê Công T và bà Lê Thị Kim H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng.
Hoàn trả lại cho Quỹ tín dụng Nhân dân cơ sở T số tiền 435.325 (Bốn trăm ba mươi lăm nghìn ba trăm hai mươi lăm) đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0021701 ngày 13/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Quỹ tín dụng Nhân dân cơ sở T, ông Lê Công T và bà Lê Thị Kim H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai theo luật định.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 98/2017/DS-ST ngày 24/10/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 98/2017/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về