TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 81/2020/DS-PT NGÀY 31/08/2020 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 67/2020/TLPT-DS ngày 05 tháng 8 năm 2020 về tranh chấp đòi tài sản.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 03/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 77/2020/QĐ-PT ngày 14 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1982; địa chỉ: Ấp Hà Đ, xã Châu H, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
- Bị đơn: Chị Phạm Thị C, sinh năm 1977; địa chỉ: Ấp 13, xã Vĩnh H, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đào Việt P, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp Hà Đ, xã Châu H, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn chị Phạm Thị C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày: Năm 2017, chị C nhiều lần hỏi vay tiền vợ chồng chị với tổng số tiền 90.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng (trong đó có 25.000.000 đồng chị C mượn để ủi hồ), khi cho mượn tiền không làm giấy tờ và cũng không ai chứng kiến), cho đến nay chị C vẫn chưa trả số tiền vay trên cho vợ chồng chị. Do đó, chị H yêu cầu chị C trả cho chị số tiền 90.000.000 đồng và lãi phát sinh từ ngày 25/02/2019, tại phiên tòa sơ thẩm chị Hh rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 65.000.000 đồng và chỉ yêu cầu chị C trả cho chị số tiền 25.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
Bị đơn chị Phạm Thị C trình bày: Chị chỉ mượn vợ chồng chị H, anh P số tiền 25.000.000 đồng nhưng đã trả tiền xong, khi trả không làm giấy tờ nhưng có ông Võ Đông P chứng kiến. Ngoài ra, chị không mượn vợ chồng chị H số tiền nào khác như chị H trình bày, do đó chị không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đào Việt P thống nhất với trình bày và việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của chị H. Ngoài ra, anh P không trình bày ý kiến gì bổ sung.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 03/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H đối với chị Phạm Thị C đòi số tiền 25.000.000 đồng.
2. Buộc chị Phạm Thị C phải có nghĩa vụ trả cho chị Phạm Thị H số tiền 25.000.000 đồng.
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H về việc yêu cầu chị Phạm Thị C trả số tiền 65.000.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, Luật thi hành án dân sự trong giai đoạn thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 14 tháng 7 năm 2020, chị Phạm Thị C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H và triệu tập người làm chứng (ông Sáu P) để các bên đối chất.
Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Phạm Thị C vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý đến thời điểm trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự và Viện kiểm sát đúng theo quy định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 không chấp nhận kháng cáo của chị Phạm Thị C, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 03/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Xét đơn kháng cáo của chị Phạm Thị C nộp trong hạn luật định và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định. Căn cứ vào Điều 273 và Điều 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự, được chấp nhận xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[3] Xét thấy kháng cáo của chị Phạm Thị C yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[4] Các đương sự đều thống nhất việc chị C có mượn chị H số tiền 25.000.000 đồng, đây là sự thừa nhận của các đương sự, thuộc tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về phía chị H xác định đến nay chị C vẫn chưa trả số tiền trên, còn chị C cho rằng chị đã trả cho anh P (chồng chị H). Xét lời trình bày của các bên thấy rằng: Việc cho vay tiền không làm giấy tờ gì và cũng không ai chứng kiến nhưng chị C thừa nhận có vay chị H số tiền 25.000.000 đồng nên có cơ sở để xác định giữa chị H và chị C có thỏa thuận vay tiền bằng lời nói. Chị C trình bày đã trả tiền trực tiếp cho anh P nhưng không có giấy tờ gì thể hiện lời trình bày trên, chị C xác định lúc trả tiền có ông Võ Đông P chứng kiến. Tuy nhiên, qua làm việc với ông P thì ông P trình bày “…. anh P có đến nhà chị C, tôi có trực tiếp thấy chị C đưa tiền cho anh Phước…còn việc đưa bao nhiêu, lý do tại sao đưa tiền thì tôi không biết”. Lời khai của ông P không thể hiện rõ số tiền chị C đưa cho anh P là tiền gì và đưa bao nhiêu nên không thể xác định thời điểm đó chị C đã trả số tiền 25.000.000 đồng cho anh P. Đồng thời, vợ chồng chị H, anh P cũng không thừa nhận có việc có nhận số tiền nào từ chị C và tại phiên tòa chị C không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho trình bày của mình. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở để chấp nhận lời trình bày của chị H theo như nhận định của cấp sơ thẩm là phù hợp.
[5] Đối với yêu cầu của chị C, yêu cầu cấp phúc thẩm triệu tập người làm chứng là ông Võ Đông P để các bên đối chất. Xét thấy: Ngày 03/6/2020 (bút lục 39 – 40) Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành lập biên bản đối chất giữa các bên, lời khai của ông P tại biên bản ngày 08/6/2020 (bút lục 32 – 33) không mâu thuẫn với sự việc cũng như lời khai của các đương sự trong vụ án. Đồng thời, tại phiên tòa chị C không đưa ra được tình tiết gì mới để cần thiết làm rõ nội dung vụ việc, do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu này của chị C.
[6] Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không căn cứ chấp nhận kháng cáo của chị Phạm Thị C; có căn cứ chấp nhận toàn bộ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu.
[7] Các phần khác của bản án dân sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị được giữ nguyên và đã có hiệu lực pháp luật.
[8] Án phí dân sự phúc thẩm: Chị Phạm Thị C phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, Điều 91, Điều 92, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của chị Phạm Thị C, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 03 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H đối với chị Phạm Thị C đòi số tiền 25.000.000 đồng.
2. Buộc chị Phạm Thị C phải có nghĩa vụ trả cho chị Phạm Thị H số tiền 25.000.000 đồng.
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị H về việc yêu cầu chị Phạm Thị C trả số tiền 65.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi 4. Về án phí:
4.1. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị C phải chịu 1.250.000 đồng. Chị Phạm Thị H đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 2.550.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0006003 ngày 25/02/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bạc Liêu được hoàn lại đủ.
4.2 Về án phí phúc thẩm: Chị Phạm Thị C phải chịu 300.000 đồng, chị C đã dự nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0010127 ngày 14/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí.
5. Kể từ ngày Bản án, Quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
6. Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 81/2020/DS-PT ngày 31/08/2020 về tranh chấp đòi tài sản
Số hiệu: | 81/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về