Bản án 33/2018/DS-PT ngày 21/05/2018 về tranh chấp đòi tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 33/2018/DS-PT NGÀY 21/05/2018 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 20/2017/TLPT-DS ngày 20 tháng 6 năm 2017 về việc “Tranh chấp đòi tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận S bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 32/2018/QĐ-PT ngày 06 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Huy Trường G – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Minh G - Sinh năm: 1977; Địa chỉ: Số 54/1168 N, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đặng Thị Phương D - Sinh năm: 1988 - Địa chỉ: K906/403/03 N, tổ 24 phường A, quận Sơn T, thành phố Đà Nẵng. Chức vụ: Trưởng phòng Chi nhánh doanh nghiệp tư nhân Minh G tại thành phố Đà Nẵng theo Giấy ủy quyền ngày 14/5/2018. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Thái Văn N- Sinh năm: 1982 - Trú tại: K 43/36 L, tổ 61(cũ) tổ 21(mới) phường A, quận S, Tp Đà Nẵng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Ngọc C - Sinh năm: 1982 - trú tại: K 43/36 L, tổ 61(cũ) tổ 21(mới) phường A, quận S, Tp Đà Nẵng theo Giấy ủy quyền ngày 20/4/2018. Có mặt.

3. Người làm chứng: Bà Đoàn Thị Kim O- Sinh năm: 1990- Địa chỉ: 132 L, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Địa chỉ liên hệ: Trung tâm dịch vụ hàng hải - Chi nhánh DNTN Minh G tại TP Đà Nẵng - Lô B1/1 N, KCN dịch vụ thủy sản Đà Nẵng, phường T, quận S, Tp Đà Nẵng. Có mặt.

- Người kháng cáo: Ông Thái Văn N là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:

* Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:

Doanh nghiệp tư nhân Minh G (Sau đây viết tắt là DNTN Minh G) thỏa thuận tuyển dụng ông vào làm công nhân viên cơ khí cho doanh nghiệp:

- Thời gian thử việc 02 tháng kể từ ngày 15/8/2016- 15/10/2016.

- Địa điểm làm việc: Trung tâm dịch vụ hàng hải – Chi nhánh DNTN Minh G tại Đà Nẵng.

- Nhiệm vụ: Trực tiếp thi công các công trình cơ khí phục vụ cho Doanh nghiệp, bảo dưỡng, bảo trì hệ thống văn phòng, nhà kho của doanh nghiệp.

- Phương pháp làm việc: Quản lý chi nhánh giao việc cho ông N. Căn cứ vào công việc được giao ông yêu cầu chủng loại và số lượng vật tư, máy móc cần sử dụng. Bộ phận kho căn cứ vào yêu cầu của ông để xuất vật tư. Khi ông báo hoàn thành công việc, bộ phận kho sẽ căn cứ vào phiếu xuất kho hoặc sổ nhật ký công việc của ông để xác nhận lượng vật tư sử dụng, giám đốc chi nhánh sẽ có trách nhiệm nghiệm thu sản phẩm hoàn thành.

- Tài liệu, máy móc, vật tư doanh nghiệp bàn giao cho ông N gồm có:

1. 01 quyển sổ nhật ký để ông N ghi lại công việc và vật tư làm hàng ngày (căn cứ để bộ phận kho kiểm tra lượng vật tư dùng và nghiệm thu sản phẩm, đồng thời là cơ sở để Phòng hành chính thanh toán lương cho người lao động trong thời gian thử việc).

2. Một số tài sản đã bàn giao:

- Đá cắt 350 – 1 viên - 100.000 đồng.

- Que hàn 2.5 - 1 hộp - 40.000 đồng.

- Lăn sơn 6.5 cm – 2 cái - 10.000 đồng.

- Chổi sơn 1.5 - 3 cái - 12.000 đồng.

- Đá cắt 100 - 1 viên - 75.000 đồng.

- Đá mài - 1 viên - 20.000 đồng.

- Thép hộp 20 x 40 x 6000 mạ kẽm (Hoa sen) - 18 cây - 2.160.000 đồng.

- Quần áo bảo hộ lao động – 1 bộ - 500.000 đồng.

- Giầy bảo hộ lao động- 1 đôi - 1.000.000 đồng.

- Găng tay hàn chống thấm – 1 đôi - 80.000 đồng.

- Găng tay len chống xước - 1 đôi - 50.000 đồng.

Ngày 11/10/2016 (trước ngày kết thúc thời hạn thử việc 03 ngày), doanh nghiệp đã có quyết định tuyển dụng đối với ông N và chuyển hợp đồng lao động để ông N ký theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông N chưa ký. Ngày 26/10/2016 ông N tự ý nghỉ việc không thông báo và không bàn giao tài liệu, tài sản được Chi nhánh Đà Nẵng bàn giao khi bắt đầu công việc.

Chi nhánh DNTN Minh G tại Đà Nẵng đã gọi điện, nhắn tin nhiều lần yêu cầu ông N tới Chi nhánh để bàn giao tài sản, công việc dang dở đồng thời quyết toán lương nhưng ông N không đến. Kể từ ngày 26/10/2016 đến nay doanh nghiệp không tuyển dụng thêm lao động cơ khí vào làm việc tại Chi nhánh.

Ngày 08/6/2017 doanh nghiệp đã gửi trực tiếp thông báo cho ông N yêu cầu hoàn trả lại đồ bảo hộ đã cấp và nộp sổ nhật ký công việc (sổ có xác nhận của bộ phận kho) để chi nhánh có căn cứ xác minh về những vật tư đang thiếu trong kho nhưng tới thời điểm này ông N vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ trên.

Nay, DNTN Minh G yêu cầu ông N phải hoàn trả cho doanh nghiệp 01 sổ nhật ký công việc (có xác nhận của bộ phận kho) và giá trị tài sản của đồ dùng bảo hộ lao động, vật tư đã bàn giao là: 4.047.000đ (Bốn triệu, không trăm bốn mươi bảy ngàn đồng).

* Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn - bà Nguyễn Thị Ngọc C trình bày:

Không đồng ý yêu cầu của nguyên đơn về việc hoàn trả một số tài sản như nguyên đơn đã nêu, ông N chỉ đồng ý trả lại 01 bộ quần áo bảo hộ lao động, 01 đôi giày bảo hộ lao động cho DNTN Minh G với điều kiện DNTN Minh G phải trả lại cho ông N số tiền đã thu trong thời gian thử việc gồm 200.000 đồng tiền cam kết thử việc và 500.000 đồng tiền cam kết bảo hộ lao động. Những vật tư khác thì trong quá trình làm việc, ông N đã làm xong và đã bàn giao đầy đủ cho DNTN Minh G. Vào ngày 26/10/2016 ông N có yều cầu nghỉ việc, đã báo cho đại diện DNTN Minh G biết, trước khi ra về thì DNTN Minh G cũng đã cử người kiểm tra kho xưởng và cử bảo vệ lục soát người và xe của ông N, giữa ông N và DNTN Minh G không có biên bản bàn giao vật tư. Kể từ thời điểm nghỉ việc cho đến nay thì ông N không xuất hiện ở DNTN Minh G. Ông N đã nghỉ việc được 09 tháng, nên việc vật tư của DNTN Minh G bị thất thoát thì ông N không chịu trách nhiệm.

Đối với sổ nhật ký công việc thì cô D bàn giao cho ông N vào đầu tháng 10/2016, khi giao cô D có nói tập làm quen với việc này, ông N lúc nhớ thì ghi, lúc quên thì không ghi. Sau khi nghỉ việc, ông N đã để lại sổ nhật ký làm việc này tại DNTN Minh G, không mang về nhà, nên yêu cầu của DNTN Minh G là trả lại số nhật ký làm việc trên là không có cơ sở.

Đối với những phiếu xuất kho số 01 ngày 11/10/2016, số 02 ngày 12/10/2016, số 03 ngày 14/10/2016, số 04 ngày 17/10/2016, số 05 ngày 20/10/2016 ông N xin giải thích như sau: mỗi lần yêu cầu ông N làm công việc gì, thì DNTN Minh G viết trên bảng, ông N căn cứ trên đó để lấy vật tư bằng hình thức làm phiếu xuất kho; làm xong sản phẩm gì thì ông N báo với cô O (nhân viên vật tư), sau đó cô D xuống kiểm tra và đưa vào sử dụng, rồi tiếp tục phân công công việc khác theo đúng quy trình như trên. Vì vậy, việc xuất trình chứng cứ chứng minh cho việc ông N bàn giao lại sản phẩm cho DNTN Minh G là không có.

Ông N đồng ý với những hóa đơn giá trị gia tăng liên quan đến việc xác định giá trị tài sản mà bên nguyên đơn đã đưa ra để làm cơ sở giải quyết vụ án.

* Người làm chứng - bà Đoàn Thị Kim O: Tòa án đã triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng bà vẫn vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, bà có đơn trình bày ý kiến như sau: Bà là nhân viên kho tại Trung tâm dịch vụ hàng hải – Chi nhánh DNTN Minh G tại Đà Nẵng. Trong quá trình anh N làm việc tại Doanh nghiệp. Đầu mỗi ngày bà căn cứ yêu cầu về vật tư do chính anh N viết để xuất vật tư. Khi anh N hoàn thành sản phẩm sẽ báo lại với bà, để bà báo lại với bộ phận văn phòng và giám đốc chi nhánh. Trước mỗi kỳ lương, trực tiếp giám đốc chi nhánh là bà Nguyễn Thị Thu Y sẽ kiểm tra, nghiệm thu chất lượng sản phẩm cùng với sự có mặt của bà và anh N làm căn cứ cho bộ phận nhân sự thanh toán lương. Sau mỗi lần nghiệp thu, bà Y sẽ kí nháy vào sổ nhật kí làm việc của ngày nghiệm thu sản phẩm đó, bà photo lại trang nhật kí có chữ kí của bà Y và gửi lại phòng nhân sự của Minh G để hoàn thiện hồ sơ thanh toán lương cho anh N.

Trong thời gian từ 01/10/2016 đến ngày 22/10/2016 anh N không thông báo cho bà bất cứ thông tin gì về việc anh N đã hoàn thành sản phẩm.

Từ ngày 23/10/2016 bà Ycó lịch đi công tác ngoài Hà Nội, lịch này đã được thông báo với toàn thể chi nhánh trước khoảng 01 tuần. Do tới ngày 22/10/2016 anh N không thông báo hoàn thành sản phẩm nên việc nghiệm thu sản phẩm trước kỳ lương ngày 25/10/2016 chưa được thực hiện. Bà cho rằng anh N đã cố ý lợi dụng việc sếp đi công tác sát kỳ trả lương để không phải thực hiện việc nghiệm thu của tháng đó.

Với nội dung trên, tại bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng quyết định:

- Căn cứ Điều 256, 289, 303 Bộ luật dân sự năm 2005.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thườn vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Huy Trường G - Chủ DNTN Minh G đối với ông Thái Văn N về việc “Tranh chấp đòi tài sản”.

Xử: Buộc ông Thái Văn N có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Huy Trường G - Chủ DNTN Minh G số tiền là: 2.917.000đ (Hai triệu, chín trăm mười bảy nghìn đồng).

Giao cho ông Thái Văn N được quyền sở hữu sử dụng đồ bảo hộ lao động gồm 01 bộ quần áo và 01 đôi giày bảo hộ (hiện nay ông Thái Văn N đang quản lý). 

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo… Ngày 06 /02/2018, ông Thái Văn N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét bác toàn bộ yêu cầu đòi tài sản không có căn cứ của nguyên đơn; Buộc nguyên đơn trả lại cho bị đơn 500.000đ tiền cam kết bảo hộ lao động, bị đơn sẽ hoàn trả lại bộ đồ bảo hộ lao động với hiện trạng hao mòn tự nhiên trong quá trình lao động và không phải bồi thường về phần hao mòn tự nhiên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về nội dung: Giữa Doanh nghiệp tư nhân Minh G và ông Thái Văn N có thỏa thuận miệng về việc tuyển dụng ông N vào làm công nhân viên cơ khí cho doanh nghiệp, địa điểm làm việc tại Trung tâm dịch vụ hàng hải – Chi nhánh DNTN Minh G tại Đà Nẵng. Với thời gian thử việc 02 tháng kể từ ngày 15/8/2016- 15/10/2016. Hết thời gian nói trên, ông N vẫn tiếp tục làm việc đến ngày 26/10/2016 thì nghỉ việc. Trong thời gian làm việc nói trên, ông N đã nhận của Doanh nghiệp: 01 quyển sổ nhật ký để ông Nghi lại công việc và vật tư làm hàng ngày (căn cứ để bộ phận kho kiểm tra lượng vật tư dùng và nghiệm thu sản phẩm, đồng thời là cơ sở để Phòng hành chính thanh toán lương cho người lao động trong thời gian thử việc); Đồ bảo hộ lao động, vật tư, sắt thép... với tổng giá trị là: 4.047.000đ (Bốn triệu, không trăm bốn mươi bảy ngàn đồng). Ngày 26/10/2016 ông N tự ý nghỉ việc không thông báo văn bản và không bàn giao lại tài liệu, tài sản được Chi nhánh Đà Nẵng bàn giao.

[2] Xét yêu cầu của ông Thái Văn N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 29 tháng 01 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét bác toàn bộ yêu cầu đòi tài sản không có căn cứ của nguyên đơn; Buộc nguyên đơn trả lại cho bị đơn 500.000đ tiền cam kết bảo hộ lao động, bị đơn sẽ hoàn trả lại bộ đồ bảo hộ lao động với hiện trạng hao mòn tự nhiên trong quá trình lao động và không phải bồi thường về phần hao mòn tự nhiên. HĐXX thấy:

[2.1] Đối với kháng cáo của bị đơn ông Thái Văn N đề nghị không chấp nhận yêu cầu đòi tài sản buộc hoàn trả lại số vật tư, tài sản doanh nghiệp, trị giá là 2.417.000đ (Hai triệu bốn trăm mười bảy nghìn đồng). HĐXX thấy rằng:

Theo đại diện Doanh nghiệp trình bày thì: Quản lý chi nhánh giao việc cho ông N, căn cứ vào công việc được giao ông N yêu cầu chủng loại và số lượng vật tư, máy móc cần sử dụng. Bộ phận kho căn cứ vào yêu cầu của ông N để xuất vật tư. Khi ông N báo hoàn thành công việc, bộ phận kho sẽ căn cứ vào phiếu xuất kho hoặc sổ nhật ký công việc của ông N để xác nhận lượng vật tư sử dụng, giám đốc chi nhánh sẽ có trách nhiệm nghiệm thu sản phẩm hoàn thành. Theo lời trình bày của người làm chứng bà Đoàn Thị Kim O là nhân viên kho tại Trung tâm dịch vụ hàng hải – Chi nhánh DNTN Minh G tại Đà Nẵng thì: Trong quá trình ông N làm việc tại Doanh nghiệp, đầu ngày làm việc bà O căn cứ yêu cầu về vật tư do chính ông N viết để xuất vật tư. Khi ông N hoàn thành sản phẩm sẽ báo lại với bà, để bà O báo lại với bộ phận văn phòng và giám đốc chi nhánh. Trước mỗi kỳ lương, trực tiếp giám đốc chi nhánh sẽ kiểm tra, nghiệm thu chất lượng sản phẩm cùng với sự có mặt của bà O và ông N làm căn cứ cho bộ phận nhân sự thanh toán lương. Sau mỗi lần nghiệm thu, bà Y sẽ kí nháy vào sổ nhật kí làm việc của ngày nghiệm thu sản phẩm đó, bà photo lại trang nhật kí có chữ kí của giám đốc chi nhánh và gửi lại phòng nhân sự của Doanh nghiệp Minh G để tổng hợp và hoàn thiện hồ sơ thanh toán lương cho ông N. Trong thời gian từ 01/10/2016 đến ngày 22/10/2016 anh N không thông báo cho bà O bất cứ thông tin gì về việc ông N đã hoàn thành sản phẩm. Từ ngày 23/10/2016, giám đốc chi nhánh Đà Nẵng có lịch đi công tác ngoài Hà Nội, lịch này đã được thông báo với toàn thể chi nhánh trước khoảng 01 tuần nên việc nghiệm thu sản phẩm trước kỳ lương ngày 25/10/2016 chưa được thực hiện.

Trong quá trình tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay các đương sự đều thống nhất xác định trong khoản thời gian từ ngày 11/10/2016 đến ngày 20/10/2016, ông N đã nhận vật tư, thiết bị của Doanh nghiệp trị giá 2.417.000 đồng thể hiện tại 05 phiếu xuất kho (phiếu xuất kho số 01 ngày 11/10/2016, số 02 ngày 12/10/2016, số 03 ngày 14/10/2016, số 04 ngày 17/10/2016, số 05 ngày 20/10/2016).

Như vậy, HĐXX thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào các phiếu xuất kho và cho rằng ông Thái Văn N đã nhận vật tư và không xuất trình chứng cứ chứng minh cho việc ông N đã bàn giao lại sản phẩm sau khi hoàn thành cho DNTN Minh G để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông N phải trả giá trị của số vật tư, tài sản đã nhận với số tiền là 2.417.000 đồng là không có căn cứ và chưa xem xét, đánh giá toàn diện chứng cứ. Bởi lẽ: Trong quá trình làm việc tại doanh nghiệp, ông N phải chịu dưới sự giám sát của giám đốc chi nhánh và các phòng ban chức năng, kể cả bảo vệ của doanh nghiệp; toàn bộ vật tư do ông N nhận đều đã được thi công tại Doanh nghiệp và không thể đưa vật tư ra khỏi doanh nghiệp. Nếu giả sử có việc thất thoát vật tư thì trách nhiệm này thuộc về doanh nghiệp chứ không thuộc về ông N. Mặc khác, Doanh nghiệp không có quy định về hạn mức vật tư đối với sản phẩm do ông N làm ra. Vì vậy, Việc ông Thái Văn N kháng cáo không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì cho rằng toàn bộ số vật tư, tài sản này ông N đã sử dụng vào các công việc do doanh nghiệp giao là có căn cứ, được HĐXX chấp nhận.

[2.2] Đối với kháng cáo của bị đơn ông Thái Văn N nguyên đơn đề nghị trả lại cho bị đơn 500.000đ tiền cam kết bảo hộ lao động và bị đơn sẽ hoàn trả lại bộ đồ bảo hộ lao động hiện tại bị đơn đang quản lý (gồm: 01 bộ quần áo, 01 đôi giày) với hiện trạng hao mòn tự nhiên trong quá trình lao động và không phải bồi thường về phần hao mòn tự nhiên. HĐXX thấy rằng: Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn xác định giá trị của nguyên bộ đồ bảo hộ lao động (gồm 01 bộ quần áo, 01 đôi giày) là 1.000.000 đồng trừ đi số tiền 500.000 đồng ông N đã nộp trước đó, số tiền còn lại yêu cầu ông N phải trả cho doanh nghiệp là 500.000 đồng; Còn phía bị đơn, chỉ đồng ý giá trị của đồ bảo hộ lao động là 500.000 đồng và được trừ vào số tiền 500.000 đồng ông N đã nộp trước đó, đối với hiện vật là đồ bảo hộ lao động gồm 01 bộ quần áo và 01 đôi giày thì bị đơn đồng ý giữ lại. Tòa án cấp sơ thẩm đã xử giao bộ đồ bảo hộ lao động này (gồm quần áo + giày) cho ông Ntiếp tục sở hữu, sử dụng và buộc ông Nhoàn trả lại giá trị của đồ bảo hộ lao động cho DNTN Minh G là 1.000.000 đồng, được trừ đi 500.000 đồng tiền cam kết ông N đã nộp trước đó, số tiền còn lại buộc ông N phải trả cho doanh nghiệp là 500.000 đồng là có cở. Vì vậy cấp phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng cáo này của bị đơn Thái Văn N.

[3] Từ những nhận định trên, HĐXX thấy cần chấp nhận 1 phần kháng cáo của bị đơn, sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn phải trả vật tư, thiết bị trị giá 2.417.000đ (Hai triệu, bốn trăm mười bảy ngàn đồng) của nguyên đơn; buộc ông Thái Văn N trả cho Doanh nghiệp tư nhân Minh G giá trị bộ đồ bảo hộ lao động.

[4] Tại phiên tòa hôm nay, đại diện VKS đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Thái Văn N. Theo hướng sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Thái Văn N trả cho Doanh nghiệp tư nhân Minh G số tiền là: 500.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 2.417.000đ (Hai triệu, bốn trăm mười bảy ngàn đồng). Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Do sửa án sơ thẩm nên bị đơn ông Thái Văn N không phải chịu án phí DSPT.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 147, 148, 296 và khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Áp dụng Điều 256, Điều 303 Bộ luật dân sự năm 2005. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Thái Văn N, sửa án sơ thẩm.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Huy Trường G - Chủ DNTN Minh G đối với ông Thái Văn N về việc “Tranh chấp đòi tài sản”.

1. Buộc ông Thái Văn N có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Huy Trường G - Chủ DNTN Minh G số tiền là: 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

2. Giao cho ông Thái Văn N được quyền sở hữu đồ bảo hộ lao động gồm 01 bộ quần áo và 01 đôi giày bảo hộ (hiện nay ông Thái Văn N đang quản lý).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Huy Trường G - Chủ DNTN Minh G về việc buộc ông Thái Văn N phải trả lại số vật tư, tài sản của doanh nghiệp trị giá là 2.417.000đ (Hai triệu, bốn trăm mười bảy ngàn đồng).

4. Về án phí:

4.1 Án phí dân sự sơ thẩm:

- Nguyên đơn ông Nguyễn Huy Trường G - Chủ DNTN Minh G phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu số 1845 ngày 25/7/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng. Ông Nguyễn Huy Trường G- Chủ DNTN Minh G đã nộp đủ án phí DSST.

- Bị đơn ông Thái Văn N phải chịu án phí DSST là: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

4.2 Án phí DSPT: Bị đơn ông Thái Văn N không phải chịu. Hoàn trả cho bị đơn số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) mà nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu số 008526 ngày 07/02/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Và được thị hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

872
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2018/DS-PT ngày 21/05/2018 về tranh chấp đòi tài sản

Số hiệu:33/2018/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;